Thứ Năm, 6 tháng 3, 2025

Thứ Tư lễ Tro

 THỨ TƯ LỄ TRO

Thứ Tư Lễ Tro là một ngày rất đặc biệt. Nó không phải là Chúa Nhật. Nó không phải là một ngày lễ buộc. Việc nhận tro không phải là một bí tích. Thế nhưng, các nhà thờ Công Giáo trên khắp thế giới sẽ chật kín người đến nhận tro và được nhắc nhở về một sự thật quan trọng nhất của cuộc sống:

“Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro, và sẽ trở về bụi tro.”

Không ai có thể phủ nhận sự thật hiển nhiên này. Nhưng có rất nhiều người cố phớt lờ nó. Họ phớt lờ bằng cách lao vào cuộc chạy đua không hồi kết, vắt kiệt sức lực và thời gian để làm nhiều việc cùng một lúc, cố gắng tích góp cho cuộc sống này như thể nó sẽ kéo dài mãi mãi. Họ giống như người phú hộ ngu dại trong dụ ngôn Tin Mừng:

"Ta sẽ tích trữ tất cả lúa thóc và của cải của ta, rồi ta sẽ tự nhủ: Hồn ta hỡi, ngươi có nhiều của cải để dành cho nhiều năm! Hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi!" Nhưng Thiên Chúa bảo ông: "Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thế thì những gì ngươi tích trữ sẽ thuộc về ai?" (Lc 12,18-20).

Có những người chấp nhận sự thật về cái chết, nhưng họ đón nhận nó với sự buồn bã. Họ chấp nhận nó với thái độ cam chịu trước điều không thể tránh khỏi, nghiến răng chịu đựng những gì họ không thể thay đổi. Đây là một thái độ tốt hơn so với việc cố gắng phớt lờ nó, nhưng đối với họ, cuộc sống chỉ còn là một chuỗi ngày u ám, vô nghĩa.

Và cũng có những người đón nhận cái chết với niềm vui, niềm vui của sự phục sinh. Đó là niềm vui của sự mong đợi điều mà "mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe, lòng người chưa hề nghĩ tới" (1Cr 2,9). Đó là niềm vui mong chờ được hợp nhất với Thiên Chúa – Đấng đã tạo dựng chúng ta, Đấng mà chúng ta được tạo dựng vì Ngài, và không có Ngài, chúng ta sẽ không bao giờ được hạnh phúc.

Đó cũng là niềm vui mà Chúa Giêsu đã cảm nghiệm khi "vì niềm vui đang chờ đợi, Người cam chịu thập giá, khinh chê ô nhục..." (Dt 12,2). Đó là niềm vui của Thánh Phaolô khi ngài nói: "...quên đi chặng đường đã qua, hướng về phía trước, tôi chạy thẳng tới đích để đoạt giải thưởng là ơn gọi từ trời cao trong Đức Kitô Giêsu." (Pl 3,13-14).

Đó cũng là niềm vui của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu khi chị nằm trên giường hấp hối và nói: "Lạy Chúa, đã đến lúc chúng ta gặp nhau rồi!"

Niềm vui này được biểu tượng và thể hiện qua dấu thánh giá khi xức tro. Tro nhắc nhở chúng ta về cái chết. Dấu thánh giá nhắc nhở chúng ta về sự sống đời đời. Tro nhắc chúng ta về việc chúng ta được tạo dựng từ bụi đất. Dấu thánh giá nhắc chúng ta về việc chúng ta được tái tạo trong cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu.

Nhận tro nhắc chúng ta rằng cái chết là một phúc lành. Các nhà tâm lý học chiều sâu nói rằng nếu con người sống mãi mãi trong điều kiện của thế gian này, đó sẽ là một gánh nặng không thể chịu nổi. Cái chết chính là vị lương y vĩ đại. Trong cái chết, chúng ta không chỉ được thay tim, thay thận hay thay gan, mà chúng ta được ban tặng một thân xác vinh hiển mới, sống đời đời.

Không phải là sự sống sau cái chết, mà là sự sống xuyên qua cái chết. Cái chết chính là cánh cửa dẫn vào sự sống, một sự sống thực sự đáng sống.

"Hỡi tử thần, chiến thắng của ngươi ở đâu? Hỡi tử thần, nọc độc của ngươi ở đâu? Tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã ban cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!" (1Cr 15,55-57).

Chuyện này làm tôi nhớ đến câu chuyện về hai chuyên gia dinh dưỡng sống rất nghiêm khắc với chế độ ăn kiêng và luyện tập. Họ không ăn thịt, luôn theo dõi huyết áp, cholesterol, ăn yến mạch mỗi ngày. Họ sống đến hơn 90 tuổi, rồi qua đời và lên thiên đàng. Một ngày kia, khi đang dạo bước trên thiên đàng, một người nói với người kia:

"Này, tôi chưa bao giờ tưởng tượng thiên đàng lại đẹp thế này!"

Người kia đáp:

"Chỉ nghĩ mà xem, lẽ ra chúng ta đã có mặt ở đây từ lâu rồi nếu không phải vì cái đống yến mạch chết tiệt đó!"

 

 

Tôi có phải là một Kitô hữu không?

                                                 TÔI CÓ PHẢI LÀ MỘT KITÔ HỮU KHÔNG?

"Họ nài xin Người cho họ được chạm đến tua áo choàng của Người; và tất cả những ai chạm đến đều được chữa lành." (Mc 6,53-56)

Điều chữa lành họ không phải là việc chạm đến áo choàng, nhưng là đức tin của họ – đức tin vào chính con người của Đức Giêsu. Họ đang dạy chúng ta một chân lý rất cần thiết ngày nay: đối tượng trực tiếp của đức tin không phải là một chân lý trừu tượng, nhưng là một con người. Chúng ta trước hết đón nhận con người ấy, rồi sau đó mới đón nhận chứng từ của Người.

Đối tượng trực tiếp của đức tin Kitô giáo chính là con người của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật. "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì không phải chết nhưng được sống muôn đời." (Ga 3,16) Đức Giêsu chính là mặc khải cuối cùng và trọn vẹn của Thiên Chúa. Nơi Đức Giêsu, phương tiện chính là sứ điệp. "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống." (Ga 14,6) Tất cả các chân lý của Kitô giáo đều được trừu xuất từ chính con người và cuộc sống của Đức Giêsu. Trở thành một Kitô hữu nghĩa là hiện thân những chân lý ấy trong chính bản thân mình, để một lần nữa, Kitô giáo không chỉ là một hệ thống tư tưởng mà là một con người sống động, và phương tiện tiếp tục là chính sứ điệp.

Đức tin của Simôn Phêrô không đặt vào một chân lý trừu tượng nào, nhưng đặt vào con người của Đức Giêsu: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa." (Ga 6,68)

Đức tin của Thánh Phaolô cũng đặt nền tảng trên con người Đức Giêsu: "Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá; tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi." (Gl 2,19-20)

Đức tin của Tôma Tông đồ cũng đặt vào chính con người của Đức Giêsu: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!"

Đức tin của chúng ta cũng phải đặt vào chính con người Đức Giêsu Kitô, hôm qua, hôm nay và mãi mãi.

Đức Giêsu đã truyền lệnh cho các tông đồ: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…" (Mt 28,19) Và "Chính tại Antiôkia, các môn đệ được gọi là Kitô hữu lần đầu tiên." (Cv 11,26)

Như vậy, là một Kitô hữu có nghĩa là trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Một môn đệ là người có một mối tương quan cá vị với Đức Giêsu, một mối tương quan tình yêu. Đức Maria chính là người môn đệ đầu tiên và cao trọng nhất, bởi Mẹ có một mối tương quan cá vị với Đức Giêsu mật thiết hơn bất cứ ai khác.

Lý do hiện hữu và mục đích của Hội Thánh Công Giáo là để khai mở, dưỡng nuôi và đưa đến sự viên mãn mối tương quan cá vị mật thiết này với Đức Giêsu trong tình yêu.

Chúng ta đều quen thuộc với cụm từ "Ipse Dixit" (tiếng Latinh: "Chính Người đã phán dạy.") Trong triết học, "Ipse Dixit" không phải là một lập luận hợp lý, vì chúng ta không thể chấp nhận điều gì đó chỉ vì một ai đó đã nói như vậy. Chúng ta phải chứng minh bằng lý trí.

Nhưng "Ipse Dixit" lại chính là trọng tâm của thần học: "Chính Đức Giêsu đã nói." Chẳng hạn, chúng ta tin rằng Bí tích Thánh Thể là Mình và Máu Đức Giêsu vì chính Người đã nói như vậy. Chúng ta không tin vì có thể lý giải hợp lý bằng những khái niệm thần học như biến thể (transubstantiation), biến đích (transfinalization) hay biến ý nghĩa (transignification).

Trong thần học, chúng ta đã dành một học kỳ để nghiên cứu về Mầu nhiệm Ba Ngôi, và cuối cùng nhận ra rằng: nếu bạn nghĩ rằng mình hiểu nó, thì có nghĩa là bạn chưa thực sự hiểu.

Thần học được định nghĩa là "đức tin tìm kiếm sự hiểu biết." Nhưng nếu vậy, chẳng phải "đức tin đang tìm kiếm sự hủy diệt chính mình", vì khi hiểu biết càng nhiều thì nhu cầu về đức tin càng ít đi sao? Nếu bạn muốn hiểu tường tận mọi sự, thì điều đó có nghĩa là bạn không thực sự tin Đức Giêsu. Bạn đang nói rằng: "Con tin Chúa, nhưng con chỉ muốn kiểm tra lại một chút."

Bạn đang quên đi câu nói nổi tiếng của Thánh Tôma Aquinô: "Đối với người có đức tin, không cần giải thích gì thêm. Đối với người không có đức tin, không lời giải thích nào là đủ."

Đức tin khởi đi từ lý trí. Lý trí là nền tảng của đức tin, giúp nhận ra những "dấu chỉ khả tín." Chẳng hạn, chúng ta cần một lý do để tin vào Đức Giêsu hơn là tin vào Mohamed, Khổng Tử hay một vị thần Hindu. Nhưng đức tin tiến xa hơn lý trí. "Đức tin là lý trí trong trạng thái ngây ngất."

Thuyết Ngộ đạo (Gnosticism), quan niệm rằng con người được cứu độ nhờ tri thức, là một trong những lạc giáo cổ xưa nhất của Hội Thánh, và nó vẫn đang phát triển mạnh mẽ ngày nay.

Vậy, thần học nên được định nghĩa thế nào? Một định nghĩa đúng đắn có thể là: "Đức tin tìm kiếm sự viên mãn trong tình yêu."

Tình yêu là bản chất của Thiên Chúa. Vì chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, nên bản chất của chúng ta cũng là tình yêu – để yêu và được yêu. Và đó là lý do Đức Giêsu đã ban cho chúng ta điều răn thứ nhất và điều răn thứ hai.

Và đó cũng là lý do tại sao tình yêu là dấu chỉ không thể sai lầm và có thể nhận biết ngay lập tức của căn tính Kitô hữu:

"Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, nếu anh em yêu thương nhau." (Ga 13,35)

"Thầy ban cho anh em một điều răn mới: anh em hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau." (Ga 13,34)

Đây là cách mà những Kitô hữu đầu tiên được nhận biết: "Hãy xem họ yêu thương nhau dường nào!" (Tertullian, Apology, 39.6)

Dựa trên tiêu chuẩn này của Đức Giêsu, tôi có được nhận ra là một Kitô hữu không?

 

Nghịch lý của Kitô giáo

 NGHỊCH LÝ CỦA KITÔ GIÁO

"Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy." Nghịch lý đáng kinh ngạc này của Kitô giáo là một trong số ít những lời dạy được tìm thấy trong cả bốn sách Tin Mừng. (Mc 8,35; Mt 10,39; Lc 9,24; Ga 12,25). Đây là bí quyết của Kitô giáo, bí quyết của đời sống thiêng liêng và bí quyết của hạnh phúc.

Chúa Giêsu đã thực hành nghịch lý này trước khi Ngài giảng dạy nó: “Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ… Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Để khi vừa nghe danh thánh Giêsu, mọi loài trên trời, dưới đất và trong nơi âm phủ phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải tuyên xưng rằng: ‘Đức Giêsu Kitô là Chúa.’” (Pl 2,6-11).

Mẹ Maria cũng đã thực hành nghịch lý này: “Này tôi là tôi tớ Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1,38). Chính nhờ hành động đức tin này mà Mẹ đã được đưa lên trời cả hồn lẫn xác và giờ đây đang trị vì như Nữ Vương Thiên Đàng.

Thánh Phêrô cũng sống nghịch lý này. Chúa Giêsu chỉ đơn giản nói với ông: “Hãy theo Thầy,” và ông đã bỏ lại chiếc thuyền cùng cha mình để bước theo Ngài. Nhờ đó, ông trở thành vị Giáo Hoàng tiên khởi. Chúa Giêsu cũng hứa rằng tất cả những ai bỏ cha mẹ, anh chị em, và mọi sự để theo Ngài thì sẽ nhận lại gấp trăm lần ở đời này và có được sự sống đời đời mai sau (Mt 19,29).

Nghịch lý này cũng là trọng tâm của lời cầu nguyện được cho là của Thánh Phanxicô Assisi, người đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu:

"Lạy Chúa, xin cho con biết yêu mến hơn là được yêu; biết an ủi hơn là được an ủi; biết hiểu người hơn là được hiểu; vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh; chính lúc thứ tha là khi được thứ tha; chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời."

Thật kỳ lạ khi chúng ta có thể đọc lời cầu nguyện này rất nhiều lần, hát lên một cách tuyệt vời nhưng lại không thực sự hiểu được ý nghĩa của nó!

Nghịch lý của Kitô giáo diễn tả điều được gọi là kenosis – sự tự hủy: tình yêu luôn tự thể hiện bằng cách tự hiến. Đây chính là kenosis của Mầu Nhiệm Nhập Thể và Vượt Qua. Đây cũng là một phép toán mới của Kitô giáo: chúng ta gia tăng bằng cách từ bỏ, và chúng ta nhân lên bằng cách chia sẻ. Nhưng chúng ta vẫn bám víu vào cách tính toán cũ – tìm cách cộng thêm và nhân lên cho chính mình. Chúng ta nghĩ rằng nếu từ bỏ bản thân, chúng ta sẽ trở nên trống rỗng và dễ bị tổn thương. Chúng ta không nhận ra rằng kenosis mang lại sự bảo đảm mà mọi người đang tìm kiếm hôm nay. Nhưng thực tế không có gì thực sự bảo đảm trong cuộc sống này. Đời sống là một cuộc phiêu lưu, một sự mạo hiểm. Sự bảo đảm duy nhất mà chúng ta có thể tìm thấy là sự an toàn nội tâm đến từ việc dấn thân trọn vẹn cho Chúa Giêsu, từ việc đánh mất chính mình vì Tin Mừng, từ việc sống trong tình yêu và phục vụ Ngài.

Tuy nhiên, điều này không hề dễ dàng, bởi chúng ta đang sống trong một xã hội tiêu thụ, nơi mà việc mua sắm, tiêu dùng, nhận lấy và sở hữu được xem là thước đo của thành công và giá trị. Những quan điểm này liên tục được truyền bá 24/7 qua các phương tiện truyền thông. Không dễ để sống ngược dòng với xã hội. Và chúng ta một cách ngu ngốc nghĩ rằng mình sẽ được thỏa mãn khi nuông chiều bản thân, tự thưởng thức và tích lũy của cải. Giống như người phú hộ dại dột trong Tin Mừng, chúng ta dành cả cuộc đời để dựng xây kho lẫm của mình mà không nghĩ đến lời cảnh báo của Chúa Giêsu:

"Đồ ngốc! Ngay đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng sống ngươi, thì những gì ngươi tích trữ sẽ thuộc về ai?" (Lc 12,20).

Ngươi khờ dại lắm! Ngươi đã bao giờ thấy một chiếc xe tải chở đồ đi theo sau xe tang chưa?

Giải pháp cho nghịch lý Kitô giáo nằm ở việc phân biệt giữa cái tôi giảcái tôi chân thật. Cái tôi giả là cái tôi tự trị tuyệt đối, cái tôi không có Thiên Chúa, nhưng thực tế nó không hề tồn tại – nó chỉ là một ảo tưởng trong tâm trí tôi. Cái tôi chân thật là cái tôi có Thiên Chúa – đây mới là cái tôi thực sự hiện hữu. Thiên Chúa là nền tảng của sự tồn tại của tôi.

"Chính trong Ngài, chúng ta sống, chuyển động và hiện hữu." (Cv 17,28).

Đây chính là ý nghĩa của sự hiện diện nội tại của Thiên Chúa: "Tôi là chúng ta, bạn là họ, và mọi bụi cây đều đang bừng cháy."

Nghịch lý Kitô giáo có nghĩa là chúng ta cần từ bỏ cái tôi giả để tìm lại cái tôi chân thật.

Nghịch lý này là toa thuốc tốt nhất cho sức khỏe thể lý, tinh thần và tâm linh – không chỉ ở đời này mà cả đời sau. Đây cũng là một ví dụ khác cho thấy Thiên Chúa chỉ truyền dạy chúng ta những điều cần thiết cho sự bình an, hạnh phúc và viên mãn của chúng ta.

THE PARADOX OF CHRISTIANITY - God's Sense of Humor and Sixty Other Homilies - Rodney Kissinger S.J

 

Thứ Tư, 5 tháng 3, 2025

Tin và thuộc về Cộng đoàn

 TIN VÀ THUỘC VỀ CỘNG ĐOÀN

Sách Công vụ Tông đồ cho thấy rằng cộng đoàn là một phần không thể thiếu trong đời sống của các Kitô hữu tiên khởi. Họ đồng tâm nhất trí, có cùng một tấm lòng, chung chia mọi sự và phân phát của cải theo nhu cầu của từng người. Họ có một “quỹ chung”, giống như quỹ mà Giuđa từng giữ. (Cv 4,32-35)

Khác hẳn với điều đó, nền văn hóa ngày nay đề cao tính “tư hữu” và chủ nghĩa cá nhân mạnh mẽ. Đây là một nền văn hóa “tự thân vận động”, nơi ai cũng muốn độc lập và tự túc. Chủ nghĩa cá nhân này đã len lỏi vào tôn giáo. Ngày nay, có một hiện tượng kỳ lạ là nhiều người bị cuốn hút bởi Chúa Giêsu, muốn trở thành môn đệ của Ngài, nhưng lại không muốn thuộc về một Giáo Hội hay cộng đoàn nào. Tôn giáo của họ chỉ là “tôi và Chúa Giêsu”. Họ tin nhưng không thuộc về. Đây là một nghịch lý. Trở thành Kitô hữu nghĩa là trở thành thành viên của cộng đoàn Kitô giáo.

Bí tích Thánh Thể, nơi Chúa Giêsu Phục Sinh tiếp tục sứ mạng của Ngài, cũng củng cố đức tin của người môn đệ và tạo nên một cộng đoàn. Bí tích Thánh Thể không chỉ liên kết tôi với Chúa Giêsu mà còn liên kết tôi với tất cả những ai cũng thuộc về Ngài. Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và là dây liên kết sự hiệp nhất. Bí tích này chính là sự chia sẻ bữa tiệc của gia đình.

Tiếc thay, ý thức về Giáo Hội như một cộng đoàn và Bí tích Thánh Thể như một bữa tiệc gia đình đang ngày càng bị suy giảm. Lý do một phần là vì gia đình không còn giữ vai trò là cộng đoàn nền tảng nơi các bữa ăn được chia sẻ và tình hiệp nhất được vun đắp. Kinh nghiệm về bữa ăn chung hằng ngày với gia đình đang dần biến mất. Bữa ăn gia đình đang bị thay thế bởi văn hóa “đồ ăn nhanh”. Và tâm lý “đồ ăn nhanh” này cũng đã len lỏi vào Thánh lễ. Nhiều người đến trễ và rời đi ngay sau khi rước lễ, giống như họ chỉ ghé vào lấy một chiếc “Big Mac” rồi đi ngay.

Khi các tông đồ xin Chúa Giêsu dạy họ cầu nguyện, Ngài đã dạy họ Kinh Lạy Cha. Hai từ đầu tiên cho chúng ta biết mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa và với nhau. Thiên Chúa là Cha yêu thương, chăm sóc chúng ta, và chúng ta là con cái của Ngài, là anh chị em trong cùng một gia đình.

Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng “Tôi tin”. Đây là một cam kết cá nhân được thực hiện trong cộng đoàn những người tin. Cộng đoàn Kitô hữu là nhóm hỗ trợ lớn nhất trên thế giới. Nếu không có cộng đoàn, chúng ta mất đi cội nguồn và căn tính của mình. Khó có ai có thể giữ vững đức tin nếu sống tách biệt trong một thế giới đầy những giá trị đối nghịch với Đức Kitô.

Không có cộng đoàn, con người đánh mất căn tính và nguồn gốc của mình. Đây là một trong những thảm kịch lớn nhất ngày nay. Giới trẻ nghĩ rằng họ có thể tìm thấy bản thân bằng cách tách khỏi gia đình, Giáo Hội và thậm chí cả đất nước, rồi tự tạo dựng căn tính riêng. Nhưng họ không nhận ra rằng họ đang quay lưng lại với chính những điều làm nên con người họ. Kết quả là họ trở nên mất phương hướng, không biết mình là ai, đến từ đâu và sẽ đi về đâu. Không có cộng đoàn, không thể có tự do đích thực. Con đường dẫn đến tự do chính là qua cộng đoàn. Chỉ khi tìm thấy sự ấm áp và tình yêu thương trong một cộng đoàn, con người mới có thể cởi bỏ mặt nạ, bước xuống khỏi bệ đài của mình, bộc lộ con người thật, và thừa nhận rằng mình yếu đuối, cần được giúp đỡ và tha thứ.

Và nghịch lý lớn nhất là cộng đoàn không được xây dựng trên những điều mà con người tự hào nhất về mình—tài năng, đức hạnh, sức mạnh và thành tựu. Những điều này chỉ tạo ra cạnh tranh, kiêu ngạo và chia rẽ. Cộng đoàn được xây dựng trên sự yếu đuối, giới hạn và những lần sa ngã của con người. Chính những điểm mạnh chia rẽ chúng ta, nhưng những điểm yếu lại liên kết chúng ta. Như Thánh Phaolô nói: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.” (2 Cr 12,10) Tất cả chúng ta đều mang những vết thương, nhưng tất cả chúng ta cũng có thể trở thành những người chữa lành với chính những vết thương ấy. Đây là nguyên tắc nền tảng và là bí quyết thành công của các chương trình hồi phục 12 bước.

Trong cộng đoàn, khi chia sẻ kinh nghiệm về hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời mình và lắng nghe trải nghiệm của người khác, chúng ta có thể nhận ra cách Chúa đang hành động trong cuộc đời mình. Điều này giúp chúng ta có một lòng kính sợ và biết ơn sâu sắc hơn đối với Thiên Chúa, một sự tôn trọng và tin tưởng người khác, và một ý thức mạnh mẽ hơn về sự hiệp nhất trong sự đa dạng rõ ràng của chúng ta. Nó cũng mở ra con đường để chúng ta nhìn nhận và chấp nhận sự yếu đuối, tội lỗi cá nhân, để có thể tha thứ và đón nhận sự tha thứ, yêu thương và chấp nhận tình yêu.

Cộng đoàn cũng sẽ dạy chúng ta nghệ thuật đối thoại và đức tính khoan dung. Nó sẽ làm phong phú thêm góc nhìn của chúng ta và giúp chúng ta tiếp cận một tinh thần đa nguyên lành mạnh. “Để tất cả nên một.” (Ga 17,21) Cộng đoàn sẽ làm sâu sắc đức tin của chúng ta bằng cách thúc đẩy chúng ta suy nghĩ và diễn đạt nó rõ ràng hơn. Nó sẽ giúp chúng ta trở thành con người duy nhất mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên, để dâng lên Ngài lời ngợi khen, sự phục vụ và tình yêu mà chỉ có chúng ta mới có thể dâng hiến. 

TO BELIEVE IS TO BELONG - God's Sense of Humor and Sixty Other Homilies - Rodney Kissinger S.J

Lễ Hiện Xuống

 LỄ HIỆN XUỐNG

Lễ Hiện Xuống là ngày sinh nhật của Giáo Hội. Trong suốt hơn 2.000 năm qua, Giáo Hội đã đứng vững trước sự tàn phá khốc liệt của thời gian. Giáo Hội đã chứng kiến các đế chế trỗi dậy, hưng thịnh rồi sụp đổ. Giáo Hội đã kiên trì vượt qua những âm mưu hủy diệt từ bên ngoài và những ảnh hưởng băng hoại từ bên trong. Giữa một thế giới tăm tối bởi tội lỗi, sự trường tồn và vững chắc của Giáo Hội vẫn sáng lên như một ngọn hải đăng trong đêm đen.

Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. Tin Mừng mà Chúa Giêsu đến để rao giảng không chỉ dành riêng cho những người thời Ngài, mà còn cho mọi thế hệ. Vì thế, khi trực tiếp loan báo Tin Mừng cho dân chúng thời bấy giờ, Chúa Giêsu cũng đồng thời chuẩn bị một phương cách để sứ mạng của Ngài tiếp tục sau khi Ngài trở về cùng Chúa Cha trên trời.

Ngài bắt đầu bằng cách quy tụ mười hai người, gọi họ là các tông đồ. Trước khi chọn họ, Ngài đã thức suốt đêm cầu nguyện. Sau đó, Ngài gọi họ: "Hãy theo Ta." Ngài dạy họ bằng lời nói và gương sống. Để họ thực tập sứ vụ, Ngài sai họ đi từng hai người một, ban cho họ quyền rao giảng Tin Mừng và trừ quỷ. Khi trở về, họ hân hoan vì những thành công đạt được. Chúa Giêsu đưa họ vào một nơi riêng để trao đổi kinh nghiệm và chỉ dẫn thêm.

Trước khi về trời, Chúa Giêsu trao cho các tông đồ một sứ vụ chính thức:

"Hãy đi khắp thế gian, làm cho muôn dân trở thành môn đệ, rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28,19-20)

Sau đó, Ngài bảo họ đến Giêrusalem và chờ đợi Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ nhắc nhớ họ về tất cả những gì Ngài đã dạy và sẽ ở với họ mãi mãi. Cũng như thân xác con người của Chúa Giêsu được cưu mang bởi quyền năng Chúa Thánh Thần trong biến cố Truyền Tin, thì Thân Mình Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu – Giáo Hội – cũng được khai sinh bởi quyền năng Chúa Thánh Thần trong ngày Lễ Hiện Xuống. Và cũng như Chúa Giêsu sống trọn cuộc đời dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, thì Giáo Hội cũng sống trọn cuộc đời mình dưới sự tác động của Ngài.

Chính nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần mà Tin Mừng về Đấng bị đóng đinh – một sứ điệp nghe có vẻ nghịch lý và khó tin đối với bản tính con người – đã được các tông đồ, những con người đơn sơ, ít học, rao giảng, và chinh phục cả thế giới trong vòng vài thế kỷ.

Thiên Chúa có thể đã chọn các thiên thần, nhưng Ngài lại chọn con người – những con người yếu đuối, dễ sa ngã và tội lỗi. Chính tính nhân loại này là bằng chứng lớn nhất cho nguồn gốc thần linh của Giáo Hội. Nếu Giáo Hội chỉ thuần túy là một tổ chức nhân loại, nó đã sụp đổ từ lâu.

Sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh, khi các tông đồ bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng vì giảng dạy về sự Phục Sinh, Gamaliel – một thầy dạy luật – đã nói:

"Bây giờ, tôi khuyên anh em: hãy để mặc những người này, cứ để họ đi. Vì nếu ý định hay công việc này là do loài người mà ra, nó sẽ tự hủy diệt. Nhưng nếu quả thực do Thiên Chúa mà có, anh em không thể tiêu diệt được họ, và còn e rằng anh em đang chống lại chính Thiên Chúa." (Cv 5,38-39)

Đó là chuyện đã xảy ra hơn 2.000 năm trước. Và ngày nay, Giáo Hội vẫn tiếp tục rao giảng sự Phục Sinh.

Nếu Thiên Chúa chọn các thiên thần để lập Giáo Hội, liệu Giáo Hội có hoàn hảo không? Không hẳn. Đã có biết bao nhiêu đạo binh thiên thần từng thốt lên: "Tôi không phục vụ" và bị quăng xuống hỏa ngục!

Nếu Giáo Hội là hoàn hảo, thì làm sao bạn có thể ở trong đó? Làm sao tôi có thể ở trong đó? Làm sao bất cứ ai trong chúng ta có thể ở trong đó? Nếu bạn đang tìm kiếm một Giáo Hội hoàn hảo và bạn tìm thấy nó, hãy gia nhập đi. Nhưng khi bạn gia nhập, nó sẽ không còn hoàn hảo nữa!

Vì vậy, lần tới khi sự yếu đuối của Giáo Hội xuất hiện một cách rõ ràng, đừng vội sốc hay vấp phạm. Thay vì cố gắng bóp méo sự thật để chối bỏ thực tế, hãy nhận ra rằng có một điều gì đó lớn hơn tất cả chúng ta ở đây.

Giáo Hội không phải là Thiên Chúa. Giáo Hội là Dân Thiên Chúa. Giáo Hội không phải là Chúa Giêsu, mà là Thân Mình Mầu Nhiệm của Ngài. Giáo Hội vừa nhân loại vừa thần linh. Và chính tính nhân loại của Giáo Hội là một trong những bằng chứng mạnh mẽ nhất về sự thần linh của Giáo Hội.

 

PENTECOST God's Sense of Humor and Sixty Other Homilies - Rodney Kissinger S.J

Thứ Tư Lễ Tro

 "Unselfie" – Arnel Aquino, SJ

Mt 6,1-6; 16-18 – Thứ Tư Lễ Tro

Nếu Tin Mừng hôm nay được viết bằng ngôn ngữ của thế kỷ 21, có lẽ sẽ có đoạn như thế này: “Khi con làm việc công chính… khi con bố thí… khi con cầu nguyện… khi con ăn chay, xin đừng đăng lên Facebook, đừng tuyên bố trên blog, cũng đừng khoe khoang một cách khiêm tốn. Và đặc biệt, xin đừng chụp một bức ‘selfie’.”

Ngay cả vào thời của Chúa Giêsu, hẳn cũng đã có sự cám dỗ muốn phô trương lòng bác ái và sự đạo đức, đến mức Ngài phải lên tiếng về điều đó, như chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng hôm nay. Ngày nay, cám dỗ đó vẫn luôn hiện hữu, thậm chí còn dễ dàng hơn trước—cám dỗ chụp một bức ảnh về sự vô vị lợi của chính mình. Nó thậm chí còn len lỏi vào những điều ngoài khuôn hình: Tôi là người quyết định ở đây; ý kiến của tôi là quan trọng nhất; lời cuối cùng phải là của tôi; tôi không phải trả lời ai ngoài chính mình.

Thế nhưng, cây thánh giá bằng tro trên trán chúng ta—nó chẳng phải là một hình ảnh lý tưởng để chụp selfie, đúng không? Làm sao có thể sẵn sàng trước ống kính khi một dấu thánh giá đen xám “làm xấu” gương mặt mình? Nhưng có lẽ đó chính là ý nghĩa của Thứ Tư Lễ Tro: sự tượng hình.

Dấu thánh giá bằng tro chính là đối nghịch của một bức ảnh selfie. Nó là dấu chỉ của unselfie—sự từ bỏ bản thân, sự tách mình khỏi cái tôi, sự hy sinh chính mình. Nhưng thập giá không phải là chủ nghĩa khổ dâm. Bởi vì khổ dâm vẫn là một cách tìm kiếm chính mình, một sự tự tôn vinh được “photoshop” thành đau khổ. Thập giá không như vậy. Thập giá chính là nỗi đau và sự hy sinh không thể tránh khỏi mà bạn và tôi phải sẵn sàng chịu đựng, nếu chúng ta muốn yêu một cách sâu sắc và chân thật.

Tôi nhớ gương mặt của mẹ tôi khi bà đang cố gắng hít thở từng hơi cuối cùng trong phòng ICU, ba tuần trước khi bà qua đời. Tôi vừa đáp chuyến bay đến Davao Doctors Hospital sau khi anh tôi gọi báo rằng mẹ đang rất yếu. Đầu bà kê trên nhiều chiếc gối. Mái tóc rối bù. Đôi mắt khép hờ. Làn da khô ráp và nhợt nhạt. Mẹ tôi lúc đó không phải là một hình ảnh đẹp. Bà chỉ trông rất, rất mệt mỏi.

"Đây chính là điều mà tình yêu làm đối với những người mẹ." Tôi nghĩ.

Chúng tôi là lý do duy nhất để mẹ sống. Vì thế, dù trong hoàn cảnh tốt hay xấu, dù giàu có hay nghèo khổ, dù khỏe mạnh hay ốm đau, mẹ vẫn yêu thương chúng tôi hết sức mình. Suốt 77 năm cuộc đời, tình yêu sâu đậm và chân thành ấy cuối cùng cũng bắt kịp trái tim mẹ. Mẹ chưa bao giờ mệt mỏi trong việc yêu thương. Nhưng mẹ đã qua đời vì kiệt sức.

Ang mga magulang natin hindi namamatay ng pag-ibig. Pero namamatay sila sa pagod.
(Cha mẹ chúng ta không chết vì hết yêu. Nhưng họ chết vì kiệt sức trong tình yêu.)

Đó chính là thập giá của unselfie: một tình yêu chân thật và mãnh liệt đến mức chấp nhận bị “làm xấu đi”, bị kiệt sức, thậm chí đến cả cái chết—nhưng không phải để tìm kiếm vinh quang, mà là để những người chúng ta yêu được sống.

Và bạn có biết vì sao chúng ta có khả năng yêu thương vĩ đại như vậy—không chỉ riêng các bà mẹ? Vì có một sức mạnh trong chúng ta làm cho điều đó trở nên khả thi. Đó là Thần Khí của Đấng đã sống trọn vẹn tinh thần unselfie đang ngự sâu trong tâm hồn mỗi người chúng ta.

Chúng ta không thể tự mình yêu thương như thế đâu, anh chị em. Nếu chỉ dựa vào sức riêng, chúng ta sẽ dễ dàng chọn yêu bản thân mình hơn tất cả, thích thoải mái hơn là hy sinh, sẵn sàng trả tiền để được yêu hơn là yêu một cách vô vị lợi và chịu hy sinh.

Nhưng nhờ ơn Chúa, chúng ta có khả năng vác thập giá, bởi vì Chúa Kitô đã thay đổi ý nghĩa của tình yêu mãi mãi bằng chính thập giá của Ngài. Chính Đức Kitô ấy đang ở trong chúng ta ngày hôm nay. Đó là lý do tại sao chúng ta chỉ tìm thấy giá trị đích thực của mình khi biết hiến dâng chính mình… chỉ khi chúng ta hiến dâng chính mình.

Hôm nay là Lễ Tình Nhân. Mặc dù sẽ khá dễ thương, nhưng tôi xin lỗi, chúng ta không thể vẽ một trái tim trên trán thay vì một cây thánh giá.

Nhưng khi nhìn thấy dấu thánh giá trên trán nhau, tôi hy vọng chúng ta nhớ rằng một trái tim thực sự biết yêu chính là một thập giá thực sự cứu độ. Và thập giá ấy đâu có xấu xí. Trái lại, nó còn vô cùng đẹp đẽ.

Nguồn:https://onelostsheep.net/2018/02/13/unselfie-arnel-aquino-sj/

 

Tại Sao Chúng Ta Hy Sinh Trong Mùa Chay – Arnel Aquino, SJ

Tại Sao Chúng Ta Hy Sinh Trong Mùa Chay – Arnel Aquino, SJ

Suy nghĩ cá nhân của tôi về việc thực hành khổ chế trong Mùa Chay, Deb à, đó là suốt cả năm, chúng ta luôn bảo vệ bản thân khỏi sự tổn thương. Điều đó đúng thôi, bởi vì chúng ta không muốn bị cuộc đời biến thành kẻ chịu đựng vô ích. Nhưng mặt trái của điều này là chúng ta tự bảo vệ mình khỏi tất cả những tổn thương—kể cả những tổn thương có thể là cơ hội giúp chúng ta học được sự khiêm nhường, kiên trì, tiết độ và yêu thương tha nhân như Chúa truyền dạy.

Khi tự áp đặt cho mình một chút bất tiện trong Mùa Chay, chúng ta muốn được nhắc nhở rằng tất cả những gì chúng ta tận hưởng cho đến lúc này đều đến từ Thiên Chúa, và chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào ân sủng của Người. Chẳng phải khi những tiện nghi và an ủi quen thuộc bị “lấy đi”, chúng ta mới nhận ra mình đã được Chúa ban phúc lành dường nào hay sao? Vì thế, chúng ta cố ý “từ bỏ” chúng để sự thiện hảo của Chúa và sự lệ thuộc hoàn toàn của chúng ta vào Người trở nên rõ ràng hơn.

Thứ hai, sự tha thứ của Thiên Chúa không chỉ bắt đầu khi chúng ta lãnh nhận bí tích Hòa Giải. Chúng ta tự nguyện đền tội để đền bù cho lỗi lầm của mình. Dẫu rằng Thiên Chúa không buộc chúng ta phải làm vậy để Người tha thứ, nhưng chúng ta vẫn muốn, ở một mức độ nào đó, cảm nhận nỗi đau và sự bất tiện mà mình đã gây ra cho người khác. Khi phạm tội, chúng ta làm tổn thương và gây đau khổ cho tha nhân. Vì thế, để đền bù, chúng ta từ bỏ một phần sự thoải mái của bản thân. Nếu tội lỗi nghiêm trọng nhất của con người bắt nguồn từ sự dư dật (Vườn Địa Đàng), thì hy vọng một chút thánh thiện có thể nảy sinh khi chúng ta đặt mình vào sự thiếu thốn (Sa Mạc).

Việc ăn chay khỏi rượu, trò chơi điện tử hay đồ ngọt đều rất tốt. Nhưng hy vọng rằng sự khổ chế tự nguyện của chúng ta sẽ: (1) làm gia tăng lòng biết ơn và (2) đào sâu sự ăn năn của chúng ta về những lỗi lầm đã phạm.

Khi Chúa Thánh Thần mở toang ngôi mộ của Con Thiên Chúa vào lễ Phục Sinh, thì tâm hồn chúng ta cũng sẽ được đổi mới và hồi sinh.

Nguồn: https://onelostsheep.net/2025/03/04/why-we-sacrifice-for-lent-arnel-aquino-sj-4/

Gia đình Thánh Gia

 

GIA ĐÌNH THÁNH GIA

“Ngài đi xuống với cha mẹ, trở về Nazareth và vâng phục các ngài. Còn mẹ Người thì ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Và Chúa Giêsu ngày càng khôn lớn, thêm ân nghĩa trước mặt Thiên Chúa và loài người.” (Lc 2,51-52)

Chúa chúng ta đã thánh hóa gia đình bằng cách bắt đầu cuộc sống trần thế của mình trong một gia đình. Thực tế, Người đã dành chín phần mười cuộc đời của mình trong mái ấm của Mẹ Maria và Thánh Giuse tại Nazareth. Sau này, Chúa nâng hôn nhân lên hàng Bí tích và làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana. Thánh Phaolô ví hôn nhân như mối quan hệ giữa Đức Kitô và Hội Thánh, "Hiền Thê của Đức Kitô". Công đồng Vatican II gọi gia đình là "Hội Thánh tại gia", nhắc nhở chúng ta rằng tế bào căn bản nhất của Hội Thánh không phải là giáo xứ mà chính là gia đình. Gia đình là thánh địa của tình yêu, sự sống và đức tin.

Gia đình là xã hội đầu tiên mà chúng ta thuộc về. Chúng ta được sinh ra trong một gia đình trước khi thuộc về Hội Thánh. Chính tên của mỗi người cũng xác định chúng ta là một thành viên của một gia đình. Trong nghi thức Rửa Tội, các bậc cha mẹ được nhắc nhở rằng họ “là những người thầy đầu tiên dạy con cái mình trong đức tin. Cầu mong họ cũng là những người thầy tốt nhất, làm chứng cho đức tin bằng lời nói và việc làm, trong Đức Kitô, Chúa chúng ta.” Ngày nay, khoa học cũng xác nhận rằng ba năm đầu đời là giai đoạn quan trọng nhất trong sự phát triển của con người.

Không có hai con người nào sinh ra là để dành cho nhau. Mỗi con người được tạo dựng là để hướng về Thiên Chúa. Hôn nhân không phải là chuyện đã được sắp đặt từ trời. Không có hôn nhân nào được "định sẵn" mà chúng được xây dựng ngay trên trái đất này, từng ngày, bằng những hy sinh mà cả hai người phải thực hiện. Hôn nhân không thể chỉ dựa vào những điều tự nhiên. Dĩ nhiên, điều đó quan trọng, nhưng hôn nhân được xây dựng dựa trên những điều không đến cách tự nhiên, đó chính là sự hy sinh.

Một giáo sư bắt đầu bài giảng về hôn nhân bằng câu nói: “Hôn nhân là một rạp xiếc ba vòng: Đầu tiên là nhẫn đính hôn, sau đó là nhẫn cưới, và cuối cùng là nhẫn chịu đựng.” Các sinh viên cười phá lên, nghĩ rằng đó là một câu đùa! Một lần kia, tôi giảng về hôn nhân và trích dẫn câu nói của Chesterton: “Hai người không hợp nhau nhất trên thế gian chính là một người đàn ông và một người phụ nữ.” Sau bài giảng, một phụ nữ đến nói với tôi: “Thưa cha, con đã kết hôn được năm mươi năm. Con ước gì con đã nghe câu này khi con mới lập gia đình.” Bà ấy đã cố gắng thay đổi chồng mình trong suốt năm mươi năm, nhưng dường như không mấy thành công.

Trong hôn nhân, hai người trở thành một. Chính sự thân mật này vừa là niềm hạnh phúc, vừa là thử thách lớn nhất của hôn nhân. "Hạnh phúc mà không có thử thách là điều không thực tế." Sự thân mật và tổn thương luôn đi đôi với nhau. Không có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau do tình yêu gây ra. Hai người trở thành một, nhưng họ vẫn phải là hai con người riêng biệt: hai cá thể được xác định rõ ràng, không tìm cách thao túng hay phụ thuộc vào nhau. Cả hai phải tôn trọng lương tâm, tính cách riêng biệt và sự tự do của nhau, cũng như chia sẻ trách nhiệm một cách bình đẳng.

Nhiều cuộc hôn nhân thất bại vì vợ chồng không nhận ra rằng hôn nhân là một sự nghiệp. Và giống như mọi sự nghiệp khác, nó đòi hỏi sự chuẩn bị lâu dài, làm việc chăm chỉ và hy sinh bản thân. Hôn nhân không chỉ là một sự nghiệp, mà còn là một sự nghiệp đa diện. Chẳng hạn, nghề dạy học là một sự nghiệp cao quý, nhưng không một sự giảng dạy nào, dù ở cấp tiểu học, trung học, đại học hay sau đại học, có thể so sánh với sự giáo dục diễn ra trong gia đình, đặc biệt là trong ba năm đầu đời. Hoặc hãy nghĩ về một nhà điêu khắc: Một bức tượng con người được tạc từ khối đá lạnh lẽo, dù có đẹp đến đâu, cũng không thể sánh được với việc tạo nên một con người bằng xương bằng thịt, mang sự sống bất diệt. Hôn nhân là sự tham gia vĩ đại nhất vào quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa.

Hôn nhân không chỉ đòi hỏi nhiều kỹ năng, mà còn là một sự phối hợp đa dạng các tài năng. Nó đòi hỏi sự kiên nhẫn của một người thầy, sự nhạy bén của một nhà tâm lý, sự khéo léo của một nhà ngoại giao, sự công bằng của một thẩm phán, sự hài hước của một diễn viên hài, lòng nhân từ của một cha giải tội và triết lý của một người bán hàng luôn tin rằng khách hàng lúc nào cũng đúng.

Gia đình là nền tảng của xã hội và của Hội Thánh, và xã hội cũng như Hội Thánh sẽ đi xuống nếu gia đình suy yếu. Thực tế, xã hội và Hội Thánh ngày nay đang đối diện với cuộc khủng hoảng gia đình chưa từng có trong lịch sử. Tự do cá nhân được đề cao đến mức mọi cam kết bị coi là mối đe dọa đối với sự độc lập, thay vì là sự hoàn thiện con người. Trong một nền văn hóa như vậy, gia đình – vốn đòi hỏi cam kết lâu dài và sự hy sinh lớn lao – khó có thể phát triển mạnh mẽ. Chủ nghĩa cá nhân cực đoan và chủ nghĩa tư bản không kiểm soát đã tạo ra những con người tự trị, cạnh tranh và tiêu thụ.

Mục đích của gia đình là nuôi dưỡng những con người có nhân cách. Và mục đích của gia đình Kitô hữu là nuôi dưỡng những con người Kitô hữu. Điều này không thể bị xem nhẹ hay đặt sau bất kỳ dự án nào khác. Chúng ta phải làm cho gia đình hoạt động tốt. Không có gì có thể thay thế gia đình.

 

God's Sense of Humor and Sixty Other Homilies - Rodney Kissinger S.J

 

Ai là thợ gặt của Chúa?

 “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (Lc 10,2)

Lời khẳng định này chắc chắn đúng khi Thánh Luca viết nó vào thế kỷ thứ nhất. Khi ấy, cả thế giới đang chờ đón Tin Mừng, mà số thợ gặt chỉ vỏn vẹn mười hai Tông Đồ. Nhưng liệu điều này có còn đúng trong thế kỷ XXI hay không?

Không có gì phải nghi ngờ rằng ngày nay, mùa gặt vẫn còn dồi dào. Thế giới hiện có hơn bảy tỷ người, mà phần lớn chưa được đón nhận Tin Mừng. Nhưng câu hỏi đặt ra là: Liệu thợ gặt có thực sự ít không?

Câu trả lời phụ thuộc vào định nghĩa của chúng ta về thợ gặt. Nếu cho rằng chỉ có hàng giáo sĩ và những người sống đời thánh hiến là thợ gặt, thì thực sự con số này đang giảm sút đáng lo ngại. Có biết bao giáo xứ thiếu linh mục, và con số tu sĩ ngày càng ít dần. Nhưng hàng giáo sĩ và tu sĩ chỉ chiếm khoảng 1% tổng số thành viên trong Giáo Hội. Nếu hiểu rằng tất cả những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa Tội đều là thợ gặt, thì thực ra số lượng này không hề nhỏ. Hiện nay, Giáo Hội Công Giáo có hơn một tỷ tín hữu, tức là cứ sáu người trên thế giới thì có một người là thợ gặt của Chúa. Một con số dư sức để thu hoạch mùa màng dồi dào mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho Giáo Hội.

Đáng tiếc thay, nhiều người đã chịu phép Rửa Tội lại không nhận ra mình là thợ gặt trong cánh đồng của Chúa. Họ không ý thức rằng làm môn đệ cũng có nghĩa là trở thành tông đồ. Họ cần đọc lại sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân của Công Đồng Vaticanô II, trong đó nhấn mạnh:

“Hoạt động tông đồ giáo dân có một vai trò đặc biệt và không thể thay thế trong sứ vụ của Giáo Hội. Thực vậy, Giáo Hội không bao giờ có thể thiếu sự đóng góp của giáo dân, vì sứ vụ này bắt nguồn từ chính ơn gọi Kitô hữu của họ. Kinh Thánh chứng minh rằng ngay từ những ngày đầu của Giáo Hội, hoạt động của giáo dân đã diễn ra cách tự phát và đầy hiệu quả.” (x. Cv 11,19-21; 18,26; Rm 16,1-16; Pl 4,3)

Theo truyền thống, công đồng đại kết đầu tiên của Giáo Hội, Công Đồng Nicêa, chính là do một giáo dân triệu tập: Hoàng đế Constantinô.

Thánh Phaolô đã ví Giáo Hội như một thân thể có nhiều chi thể, mà mỗi chi thể đều quan trọng để bảo đảm sự hoạt động của toàn thân:

“Như thân thể chỉ là một mà có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dù là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đều đã chịu phép Rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể.” (1 Cr 12,12-13)

Người giáo dân không được quên phẩm giá và trách nhiệm lớn lao của mình, cũng như nhu cầu cấp thiết của Giáo Hội đối với họ. Chính họ là “muối cho đời”, “ánh sáng cho trần gian”. Công Đồng Vaticanô II khẳng định rằng không có bậc sống nào là trọn lành hơn bậc sống nào. Mọi người đều được kêu gọi nên thánh nhờ Bí tích Rửa Tội. Qua Bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, giáo dân tham dự vào chức tư tế chung của Đức Kitô. Họ được Thiên Chúa ban cho những ân sủng và đặc sủng, không chỉ để thánh hóa bản thân mà còn để xây dựng Giáo Hội. Các ân sủng này cần được hàng giáo phẩm nhận biết và khuyến khích sử dụng.

Người giáo dân là "tư tế của trật tự trần thế." Họ là những nhà lập pháp, thẩm phán và nhà hành pháp, những người làm luật, giải thích và thực thi luật pháp của xã hội. Họ cũng là những bậc cha mẹ, những nhà giáo dục đầu tiên trong tế bào căn bản nhất của xã hội: gia đình. Trong nghi thức Rửa Tội, Giáo Hội nhắn nhủ cha mẹ rằng:

“Anh chị sẽ là những người thầy đầu tiên dạy đức tin cho con mình. Mong rằng anh chị cũng sẽ là những người thầy tuyệt vời nhất, bằng chính đời sống chứng tá của mình.”

Sách Sáng Thế trình bày gia đình như tổ chức nền tảng đầu tiên của xã hội. Công Đồng Vaticanô II gọi gia đình là “hội thánh tại gia” (Ecclesia domestica). Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II còn gọi gia đình là “thánh địa của sự sống” giữa “nền văn hóa sự chết”. Chính trong môi trường gia đình, ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến được gieo trồng và nuôi dưỡng. Đa số các giáo viên trong hệ thống giáo dục Công Giáo cũng chính là giáo dân.

Dĩ nhiên, trong thế giới này, chỉ có Thiên Chúa là Đấng không thể thay thế. “Nghĩa trang đầy những người từng được cho là không thể thay thế.” Nhưng trong Vương Quốc của Thiên Chúa, mỗi người đều là duy nhất, không thể lặp lại, được ban ân sủng và là người không thể thiếu.

Mọi Kitô hữu đều là thợ gặt trong cánh đồng của Chúa. Và mùa gặt hôm nay thực sự bội thu. Xin cho chúng ta cùng nhau góp phần thu hoạch mùa màng cho Thiên Chúa.

 Trích trong God's Sense of Humor and Sixty Other Homilies - Rodney Kissinger S.J

 


  Chương trình giáo dục và sách giáo khoa thời Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Chánh https://petruskyaus.net/chuong-trinh-giao-duc-va-sach-giao-k...