Thứ Ba, 8 tháng 7, 2025

Lãnh đạo cộng đoàn đức tin

 !!! Lãnh đạo. Nghĩa là, khả năng khơi dậy và điều phối các hồng ân nơi một cộng đoàn nhân loại đang hiệp nhất tiến bước trong sứ mạng.

1.     Lắng nghe lẫn nhau

2.     Quan tâm đến tình trạng của toàn thể

3.     Sự an tâm để có thể tín nhiệm

4.     Tình yêu là trọng tâm của vấn đề

  1.  Lắng nghe lẫn nhau:

Một giáo xứ hiện đại tại Hoa Kỳ là một tổ chức nhân sự phức tạp. Để thi hành sứ vụ của mình, giáo xứ cần đến nhiều kỹ năng đa dạng. Cơn đói khát thiêng liêng được nuôi dưỡng qua các cử hành cầu nguyện dựa trên kho tàng lịch sử cứu độ, như chúng ta đã thấy. Nhưng cũng còn đó những lớp học cần được tổ chức, các hoạt động bác ái cần được triển khai, thời khóa biểu phải được tuân thủ, quỹ cần được quyên góp và quản lý, vật tư cần được mua sắm, cơ sở vật chất cần được bảo trì. Máy hơi nước cần được theo dõi, và ngay cả việc thu gom rác cũng cần có người lo. Có cần phải nói rằng những việc đó không nhất thiết phải do người đã được truyền chức đảm nhiệm không? Thật không may, dựa vào cách hành xử của một số mục tử bị “giáo sĩ hóa,” ta có lẽ vẫn phải nói ra điều đó.

Vấn đề nằm ở chỗ: những vị mục tử không biết trao phó các công việc này cho người khác đang hành động từ một cảm thức quá mức về tầm quan trọng của chính mình—một dấu hiệu rõ rệt của não trạng giáo sĩ trị. Cộng đoàn đức tin không gọi các ngài, cũng không mong các ngài làm những điều đó. Và bất kỳ chủng viện nào không giúp các chủng sinh thoát khỏi thứ huyễn tưởng tự cao tự đại ấy—rằng mình có thể “làm được mọi việc”—thì thật sự đang thất bại trong việc đào tạo cho cộng đoàn linh mục. Những người chuẩn bị trở thành linh mục không cần học các môn kế toán hay quản trị cơ sở vật chất. Điều họ cần học là biết cách khơi dậy những hồng ân đang hiện diện trong thân thể của các tín hữu, và biết tín nhiệm họ khi họ phục vụ cộng đoàn bằng những hồng ân đó.

 

!!! Lãnh đạo. Nghĩa là, khả năng khơi dậy và điều phối các hồng ân nơi một cộng đoàn nhân loại đang hiệp nhất tiến bước trong sứ mạng.

Vậy thì hãy nhắc lại một lần nữa: Giáo hội là duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền—và đồng thời là một tổ chức hoàn toàn nhân loại. “Lãnh đạo” không phải là một khái niệm đến từ thế giới thế' tục, tàn nhẫn, kinh doanh. Đó là một vấn đề nhân sinh. Đó là yếu tố cần thiết cho bất kỳ tổ chức nhân loại nào. Nếu không được quan tâm đúng mức, nguồn lực của rất nhiều người thiện chí sẽ bị lãng phí, và sứ điệp Nước Trời sẽ bị méo mó. Đó chính là trọng tâm của dụ ngôn ngắn trong Tin Mừng, kể về người chủ nhà đuổi được quỷ ra khỏi nhà mình. Khi nhà được quét dọn sạch sẽ, bảy quỷ dữ khác kéo đến, và “tình trạng sau cùng của người ấy còn tệ hơn trước” (Lc 11,24-26). Hãy thử hình thành một nhóm không có người lãnh đạo, bạn sẽ thấy một rổ rắn lổn ngổn tranh nhau leo lên thống trị. Con người vốn là như thế, dù là trong đời sống thế tục hay thiêng liêng.

Lắng nghe lẫn nhau. Các lý thuyết lãnh đạo khác nhau có thể nhấn mạnh vào những khía cạnh khác nhau (thậm chí có phần mâu thuẫn), nhưng có thể nói rằng trong hầu hết các lý thuyết ấy, một yêu cầu then chốt luôn là: cần có giao tiếp hiệu quả—cả từ phía giáo dân lẫn linh mục.

Cha ấy không biết chúng tôi thật sự muốn làm gì, vì cha ấy chẳng chịu lắng nghe ai cả...”

Hai người ấy chính là đồng phạm trong việc duy trì nền văn hóa giáo sĩ trị. Cha xứ tránh phải tỏ ra dễ tổn thương bằng cách không lắng nghe và không đối diện với những điều mà có lẽ ngài không muốn nghe, trong khi vị chủ tịch hội thì chấp nhận ở trong trạng thái bất mãn thụ động. Mỗi người giữ lấy cái “đặc quyền” đổ hết trách nhiệm lên người kia, và cả hai đều trút sự bực bội của mình lên những người thứ ba bên ngoài thay vì chia sẻ trực tiếp với nhau và cùng nhau bắt tay vào xây dựng điều gì đó.

Chị đồng ý, nhưng đưa ra một nguyên tắc: “Không được phép than phiền về cha xứ của các anh.” Điều đó đồng nghĩa với việc họ được mời gọi phải có trách nhiệm cá nhân, chứ không dễ dãi chọn con đường chỉ trích người khác.

2.     Quan tâm đến tình trạng của toàn thể.

Một khía cạnh nền tảng thứ hai của vai trò lãnh đạo chính là: lãnh đạo luôn hướng đến toàn thể, chứ không phải từng phần riêng lẻ.

Người lãnh đạo cần quan tâm đến toàn bộ hệ thống con người, và đó là một thực tại thuộc cấp độ khác chứ không phải chỉ là tổng số các cá nhân gộp lại. Một “toàn thể” không phải là phép cộng đơn thuần của các “phần,” mà là một thực tại khác hẳn về bản chất.

ð như một dân duy nhất

Nếu người được mời gọi lãnh đạo không biết quy tụ năng lượng của cộng đoàn, thì cộng đoàn đó sẽ chỉ tồn tại như một tập hợp rời rạc của những lợi ích riêng lẻ. Mỗi lợi ích ấy có thể đúng đắn theo cách riêng của nó, nhưng nếu thiếu sự lãnh đạo hiệu quả, thì từng thành viên sẽ kéo cộng đoàn đi theo những hướng đối lập hoặc thậm chí chống lại nhau. Trong tình trạng ấy, mượn lời thi sĩ Yeats: “trung tâm sẽ không còn đứng vững,” bởi vì chẳng còn trung tâm nào nữa.

Điều đó có nghĩa là: nếu người lãnh đạo muốn quy tụ những năng lượng con người lại với nhau, thì người ấy cần có khả năng lắng nghe và quan sát liên tục những tín hiệu mà chính cộng đoàn đang phát ra. Người ấy phải biết diễn giải những tín hiệu ấy một cách có hệ thống: phân biệt đâu là những tín hiệu thực sự phản ánh sức khỏe chung của cộng đoàn, và đâu chỉ là những tiếng nhiễu đến từ cảm xúc nhất thời của những cá nhân lẻ loi. Và một người lãnh đạo khôn ngoan sẽ không liều lĩnh chỉ dựa vào sự khôn ngoan của riêng mình (đó cũng là một cạm bẫy của não trạng giáo sĩ trị, như ta đã thấy). Một người lãnh đạo giỏi sẽ tạo ra nhiều diễn đàn đa dạng - từ những buổi trò chuyện bên tách cà phê, đến những phiên thảo luận nhóm, hay những buổi họp mặt toàn thể - nơi các ý kiến trái chiều có thể được cất lên. Âm thanh kết quả có thể là một hợp âm trưởng hài hòa, một quãng ba thứ trầm lắng, hoặc cả một dàn hợp xướng đầy hỗn loạn như mèo cào nhau. Ở một khía cạnh nào đó, mức độ hài hòa không phải là điều quan trọng nhất; điều quan trọng là thực tại được nói lên đúng như nó là. Hãy nhớ rằng: để chạm đến tâm hồn con người, thực tại không nhất thiết phải mang dáng vẻ dịu dàng, đoan trang như một bản nhạc của Pachelbel; những âm thanh chói gắt của Shostakovich cũng có giá trị và sự thật riêng của nó. Nói một cách bình dân: người lãnh đạo (và cộng đoàn) phải biết chơi những quân bài mà mình đang có trong tay. Kết quả như thế' nào sẽ tùy thuộc vào cách họ cùng nhau chơi những quân bài ấy.

 




Dù khác biệt, thậm chí khác nhau rất sâu sắc, mỗi mô hình đều mang nơi mình tiềm năng giúp một cộng đoàn cụ thể tiếp tục tiến bước trong hiệp nhất để hoàn thành sứ mạng của mình.

Việc “mỗi người một phiếu” không tự động là cách hữu hiệu nhất. Lối lãnh đạo độc đoán cũng không phải lúc nào cũng gây hại; thực vậy, trong những thời điểm khủng hoảng, đôi khi đó lại là lựa chọn duy nhất thực sự mang tính chăm sóc. Và giữa hai cực đó là muôn hình vạn trạng những mô hình lãnh đạo mang tính tham khảo và xây dựng đồng thuận. Tính hiệu quả của một mô hình không tùy thuộc vào bản thân mô hình ấy, nhưng trước hết là do tình huống và nhu cầu của cộng đoàn cụ thể. Và sâu xa hơn, nó tùy thuộc vào thái độ mà cả người lãnh đạo và cộng đoàn mang theo khi thực hiện mô hình đó.

3.     Sự an tâm để có thể tín nhiệm.

Ngay trên bình diện thực tiễn, thực tại sẽ sớm cho thấy người giữ chức vụ không thể tự mình làm hết mọi việc. Có quá nhiều điều cần được thực hiện.

Lãnh đạo không tự động được trao ban cùng với chức vụ (lại càng không phải cùng với danh xưng); lãnh đạo luôn là một hồng ân được cộng đoàn tự nguyện trao ban, khi họ cảm nghiệm được nơi người ấy sự tôn trọng. Lãnh đạo được cộng đoàn đón nhận trên cơ sở hành động, chứ không phải vì đã được truyền chức hay bổ nhiệm làm cha xứ.

Một lần nữa, chúng ta lại đi vào lãnh vực của sự mong manh. Người linh mục mang tinh thần giáo sĩ trị cố bám víu vào chiếc nạng cao su là danh xưng và quyền hành để tìm kiếm sự an toàn. Một vị giữ chức vụ nhưng bên trong lại bị điều khiển bởi nỗi sợ sẽ vận dụng mọi sự khôn khéo của mình để kìm hãm sự hỗn độn của bất định; và chính nỗ lực kiểm soát đó lại chỉ dẫn đến thái độ phòng thủ nơi các thành viên.

Một cộng đoàn Hội Thánh, cũng như bất cứ cộng đồng nhân loại nào, là một mạng lưới tương quan gắn bó với nhau, và hành vi của giáo dân không thể không bị ảnh hưởng bởi nỗi sợ tỏa ra từ vị lãnh đạo đầy tính kiểm soát. Bằng một câu ngắn gọn, Edwin Friedman đã nêu rõ điều thiết yếu nơi người lãnh đạo: đó là “một sự hiện diện không âu lo.”[1]

4.     Trọng tâm của vấn đề chính là tình yêu

Họ đã được biến đổi ra sao? Những trải nghiệm nào còn lưu lại mãi? Họ đã khác đi như thế’ nào nhờ những kinh nghiệm đó? Và giờ đây, họ đang tiếp tục được nuôi dưỡng bởi điều gì trong đời sống và sứ vụ của họ?

Từng người một, thông điệp hiện lên rõ ràng: họ yêu những con người mà họ phục vụ. Điều được hé lộ chính là lòng thán phục và biết ơn sâu sắc của các nhà truyền giáo đối với cách mà chính dân của họ đã loan báo Tin Mừng cho họ.

Nhiều người đã nói rất thẳng thắn: “Tôi cứ tưởng mình được sai đi để đem Tin Mừng đến cho họ, ai ngờ tôi lại khám phá ra rằng Tin Mừng đã có sẵn nơi họ và chính họ đã loan báo Tin Mừng cho tôi.Chính những con người mang phẩm chất linh mục đã làm cho họ trở thành những mục tử mang linh đạo linh mục. Nếu ơn gọi khiến họ trở thành giáo sĩ, thì chính tình yêu giữa họ với dân của mình đã giữ họ sống ơn gọi làm linh mục. Sự hỗ tương trong đó có thể cảm nhận được một cách rõ ràng. Và cũng vậy, là niềm vui khi được phục vụ.

Có lẽ câu hỏi đầu tiên trong bất kỳ cuộc lượng giá nào về sứ vụ linh mục nên là: Anh có yêu đoàn chiên của mình không? Và cho cả giáo dân: Anh chị em có yêu các vị mục tử đã được kêu gọi từ giữa lòng cộng đoàn mình không?

Tình yêu thì không bao giờ là điều có thể đòi hỏi hay kỳ vọng, dù là giữa vợ chồng hay giữa cộng đoàn với người lãnh đạo của họ. Tình yêu, vào một ngày nào đó, bỗng được khám phá như một sự hiện diện âm thầm. Như một hồng ân tự nhiên xuất hiện. Nhưng tình yêu ấy chỉ đến sau khi người ta đã dồn hết sự chú ý và lắng nghe đến những âm thanh mỏng manh nhất; sau khi người ta đã dốc cạn tấm lòng chăm sóc, vượt qua tư lợi; và sau khi đôi bên đã trao cho nhau những hành vi phục vụ chân thành.

 

 

 

 

 



[1] Edwin Friedman, Generation to Generation: Family Process in Church and Synagogue (New York: Guilford Press, 1985), passim.

Hướng Dẫn Trong Những Vấn Đề Thiêng Liêng

 Ân ban thứ ba mà cộng đoàn linh mục tìm kiếm khi kêu gọi một số thành viên phục vụ mình, chính là khả năng đồng hành với từng người trong hành trình khám phá hoạt động của Thánh Thần trong cuộc đời họ.

Bị chấn động sâu sắc, họ tìm đến một nhân vật khôn ngoan trong đức tin để tìm kiếm xem Thiên Chúa đang ở đâu giữa thảm kịch vô nghĩa này.

ð Có bao nhiêu người Công giáo được học hành đầy đủ sẽ tìm đến cha xứ của mình để xin hướng dẫn trong một hoàn cảnh tương tự?

Thời mà giáo dân chưa được học hành cần đến linh mục để giảng giải những điều căn bản của đức tin đã qua rồi. Nam nữ giáo dân trong xã hội phát triển ngày nay được học hành đến những trình độ mà ông bà tổ tiên họ khó có thể tưởng tượng. Để được tin tưởng trong vai trò hướng dẫn thiêng liêng giữa một thế giới phức tạp như hiện nay, cần phải thể hiện được một trình độ hiểu biết sâu sắc.

Thách đố lớn nhất mà chúng tôi sẽ phải đương đầu trong những năm tới chính là sự xuất hiện của một tầng lớp giáo dân có học thức cao. Liệu các linh mục được đào tạo trong chủng viện có thể đứng ngang hàng với một cộng đoàn như vậy không?

Khi một người được đào tạo bài bản trong bất kỳ lĩnh vực nào, thì người ấy cũng có khả năng nhận ra những lối suy nghĩ kém cỏi, ngay cả trong một lĩnh vực mà họ chưa biết nhiều.”[JH1] 

Hướng dẫn thiêng liêng đòi hỏi sự nhạy bén được tôi luyện kỹ lưỡng. Đây không phải là việc giảng dạy (lại càng không phải là đưa ra câu trả lời rập khuôn theo kiểu “mục số mấy trong sách Giáo lý Hội Thánh Hoàn vũ”), cũng không phải là trao cho người ta những “bó hoa giáo huấn” sáo rỗng. Ngay cả kỹ năng lắng nghe thôi cũng đã cần được đào tạo và hướng dẫn ở trình độ cao, chưa kể đến khả năng biện phân để hiểu điều mình đang nghe và nhận ra ý nghĩa của nó trong cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối đang diễn ra trong tâm hồn người đối diện.[JH2] 

Dù không phải linh mục nào cũng được kỳ vọng sẽ có đầy đủ những hồng ân này, các ngài vẫn cần biết trân trọng giá trị của chúng và biết cách chỉ đường cho người tìm kiếm đến với những chứng nhân khôn ngoan đích thực. Chính trách nhiệm này lại một lần nữa đặt ra thách thức cho não trạng giáo sĩ trị.

Trong nền văn hóa đã được canh tân của một Hội Thánh tương lai, vẫn sẽ có giáo sĩ được truyền chức và giáo dân. Điều khác biệt sẽ nằm ở mối tương quan giữa hai thành phần này.

Một mối tương quan được xây dựng trên nền tảng chung là chức linh mục của Bí tích Thánh Tẩy sẽ đòi hỏi một thái độ không phải là trên-dưới, mà là tương hỗ. Những người đồng hàng có thể nhận ra và trân trọng sự hiện diện của những hồng ân khác nhau nơi nhau, mà không rơi vào não trạng tự cao hay tự ti. Những vị linh mục khôn ngoan sẽ nhận ra rằng có những giáo dân được ban cho khả năng đồng hành thiêng liêng vượt trội hơn chính mình.

Chính cộng đoàn sẽ đào tạo các ngài, nhờ sự huấn luyện của những nhà đào tạo khôn ngoan trong chủng viện, hoặc nhờ sự chia sẻ chủ động từ cộng đoàn linh mục, rằng người tín hữu không kỳ vọng nơi các ngài vai trò làm người hướng dẫn thiêng liêng cá nhân. Thay vào đó, họ trông mong nơi vị mục tử biết rõ những người có hồng ân ấy và giúp kết nối với họ. Điều này đòi hỏi sự tín thác, nhưng hoàn toàn khả thi.

Một mục tử có năng lực sẽ luôn có trong tay danh sách các nguồn lực thiêng liêng trong khu vực: các trung tâm tĩnh tâm, đan viện, và những người hướng dẫn thiêng liêng cụ thể. Vị ấy sẽ chăm chú lắng nghe kinh nghiệm của các giáo dân khi họ gặp gỡ những người hướng dẫn thiêng liêng khác nhau, và luôn luôn tỉnh thức để cập nhật thông tin đó.

 PHẦN TRÊN: TRÍCH TRONG SÁCH "GIÁO SĨ TRỊ" 

 

 

 


 [JH1]Chuẩn luôn!
Vì thế, giới học thức rất hay chê các cha về nhân bản, lối hành xử.

Họ đã tiếp xúc nhiều với các Sếp, và họ đang là lãnh đạo, nên họ biết một người tầm cỡ là như thế nào!!!

 [JH2]Quá hay!
Jps- con đang cần cái này lắm.
Lạy Chúa, xin hãy giúp con. 

Phụng Vụ

 Phụng vụ là nơi ưu tiên để vị linh mục kết nối đời sống của các tín hữu với câu chuyện đang tiếp diễn về lòng trung tín của Thiên Chúa  trong khi con người vẫn bất trung. Trong việc thờ phượng chung của chức linh mục thánh thiện, thừa tác viên được truyền chức được mời gọi chủ sự, khơi lên lời cầu nguyện từ một dân tộc hiệp nhất.

Khi nói về vai trò phụng vụ của linh mục, điều đầu tiên cần lưu ý là: tôi không nói rằng linh mục là “chủ tế.” Người cử hành không phải là thừa tác viên được truyền chức, mà chính là cộng đoàn tín hữu quy tụ. Cộng đoàn với chức linh mục thánh thiện cử hành như một thân thể duy nhất. Linh mục dẫn dắt bằng cách khơi lên Thần Khí cầu nguyện từ chính trái tim của cộng đoàn.

Linh mục không phải đang “thực hiện” một nghi lễ mà các tín hữu chỉ đứng ngoài nghe và quan sát

Đấng Phục Sinh hiện diện nơi đời sống và cộng đoàn thờ phượng của toàn thể dân linh mục.

nơi vị lãnh đạo cũng như nơi từng người trong cộng đoàn, kinh nghiệm phụng vụ phải thực sự là một hành vi cầu nguyện. Không phải đơn giản là đọc kinh hay đọc kinh nguyện Thánh Thể - mà là cầu nguyện. Cộng đoàn sẽ chỉ có thể được dẫn vào hành vi cầu nguyện chung, nếu người lãnh đạo thực sự đang sống trong sự cầu nguyện, nghĩa là đang hiện diện trước mặt Thiên Chúa , ngay trong giây phút hiện tại.

Nếu chúng ta không phải là những người sống cầu nguyện, thì chẳng ai trong chúng ta có thể “tồn tại.”

Ai không sống đời cầu nguyện trong cuộc sống hằng ngày thì cũng sẽ không thể tự nhiên trở thành người cầu nguyện thực sự chỉ vì bước vào nhà thờ và tiến lên cung thánh. 

Với sự nhập thể, tính thể lý, với tính bí tích nơi thân thể-con người, chính là trung gian truyền đạt kinh nghiệm đứng trước mặt Chúa. Chủ sự là một hành vi mang thân xác, là sự giao tiếp bằng thân thể trong lòng một cộng đoàn cầu nguyện.

Các tín hữu được mời gọi trở thành một cộng đoàn cầu nguyện, nhưng cách cầu nguyện được chủ sự dẫn dắt chính là yếu tố then chốt cho điều đó.

Trong phụng vụ: các nghi thức lặp đi lặp lại nhiều lần có khuynh hướng trở thành sự nhàm chán, và nói thẳng ra là chết khô.

Các nghi thức có thể được thi hành đúng như trong sách - trong khi lòng tin của người tín hữu bị kéo căng đến giới hạn vì sự buồn tẻ và vô cảm.

Việc hình thành bầu khí và thái độ chủ đạo trong nền văn hóa hiện nay, tuy không phải là trách nhiệm duy nhất, nhưng trách nhiệm chính vẫn thuộc về hàng giáo sĩ. Chính các ngài là những người đã dạy cho giáo dân cách hành xử (và phải nhớ rằng giáo dân phần nào cũng đã chấp nhận cách dạy đó một cách dễ dãi). Trong hoàn cảnh bình thường, chính hàng giáo sĩ sẽ phải là những người khởi xướng việc hình thành một nền văn hóa mới thay thế, tuy nhiên như chúng ta sẽ thấy, giáo dân cũng có vai trò cộng tác trong trách nhiệm chung này. Chính hành trình nội tâm thiêng liêng của vị chủ sự được biểu lộ ra bên ngoài, chính sự mong manh dễ tổn thương của ngài, mới là chìa khóa mở ra sự đáp trả của cộng đoàn[JH1] . Điều này thật đáng sợ, vì nó đặt ra một câu hỏi cốt yếu: liệu người đang công bố những lời lẽ cao cả ấy có thực sự tin vào những điều mình nói không? Nó thách thức vị chủ sự phải hiện diện một cách chân thật trước những gì Thiên Chúa  đang thực hiện nơi chính bản thân mình, rồi biến kinh nghiệm đó thành sự hiện diện sống động cho cộng đoàn cùng tham dự qua biểu lộ bằng thân xác, để đánh động họ cũng hiện diện trước Thiên Chúa

Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến chiếm lấy con, và lôi kéo tâm trí con hoàn toàn về với Thánh lễ này trong sự hiện diện yêu thương của Ngài, để lời nguyện của con có thể đánh động lời nguyện của dân Chúa.”

PHẦN TRÊN ĐƯỢC TRÍCH TỪ CUỐN SÁCH "GIÁO SĨ TRỊ"


 [JH1]Chưa rõ và chưa hiểu lắm! 

  Chương trình giáo dục và sách giáo khoa thời Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Chánh https://petruskyaus.net/chuong-trinh-giao-duc-va-sach-giao-k...