Thứ Hai, 8 tháng 9, 2025

Sau 50 Năm Ðọc Lại Quốc Văn Giáo Khoa Thư - Phần 1

 SAU 50 NĂM ÐỌC LẠI QUỐC VĂN GIÁO KHOA THƯ (PHẦN 1)

Nguồn: https://sites.google.com/site/bienkhao/bk-2

Vài lời của Vườn : Trong Câu Chuyện Văn Học lần này, Vườn xin được đăng lại loạt bài của Giáo Sư Trần Văn Chi viết về đề tài "Sau 50 năm đọc lại Quốc Văn Giáo Khoa Thư “ . Những bài viết vừa gợi lại kỷ niệm của thời thơ ấu, mới bước chân vào lớp học vỡ lòng và học những bài học đầu tiên trong đời học sinh, vừa là những bài phân tích rất giá trị của tác giả về những bài học trong cuốn sách giáo khoa đầu tiên của nền giáo dục nước ta .

Loạt bài gồm 14 bài viết sẽ được Vườn chia đăng làm 3 kỳ . Ngoài ra để cho các bạn đọc muốn tham khảo lại tất cả các cuốn sách “ Quốc Văn Giáo Khoa Thư “ của 3 lớp Sơ Đẳng, Đồng Ấu và Dự Bị, Vườn cũng xin đăng lại đầy đủ cả 3 cuốn sách này. Xin các bạn vào đường link dưới đây để đọc sách .

( Xin lưu ý các tài liệu được đăng dưới dạng PDF text )

* Quốc Văn Giáo Khoa Thư (Lớp Sơ Đẳng )

* Quốc Văn Giáo Khoa Thư ( Lớp Đồng Ấu )

* Quốc Văn Giáo Khoa Thư ( Lớp Dự Bị )

***

Sau 50 Năm Ðọc Lại Quốc Văn Giáo Khoa Thư

GS Trần Văn Chi

Bài 1: Thân phận lạc loài

Những ai, trong chúng ta, ở độ tuổi 60 trở về trước, hẳn còn nhớ bộ sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư ( QVGKT); Có thể đã từng đọc qua hoặc đã nghe đâu đó kể, hoặc đọc qua một vài đoạn, vài bài trong đó. Ðã nửa thế kỷ qua đủ để chúng ta quên nó. Và đủ để chúng ta nhớ nó; nhưng dù thế nào nay đọc lại cũng gây cho chúng ta ít nhiều hoài niệm về thời thơ ấu. Thời mà ngày hai buổi cấp sách đến trường, thời ăn chưa no, lo chưa tới của tuổi học trò.

Trong buổi sơ khai của chữ quốc ngữ (không phải chữ Hán, chữ Tây), bộ QVGKT là bộ sách giáo khoa, do nhà nước Pháp, mà trực tiếp là Nha Học Chánh Ðông Pháp, giao cho quí ông Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Ðặng Ðình Phúc và Ðỗ Thận cùng biên soạn. Bộ QVGKT gồm có 3 quyển:

- Quyển dành cho lớp Ðồng Ấu ( Cours Enfantin) là quyển dạy về luân lý (Morale) qua các bài tập đọc và tập viết.

- Quyển dành cho lớp Dự Bị ( Cours Préparatoire)

- Và quyển dành cho lớp Sơ Ðẳng ( Cours Elementaire).

Hai quyển Dự Bị và Sơ Ðẳng gồm các bài tập đọc (lecture), chứa đựng nội dung bao gồm: Sử ký, Ðịa Dư, Cách trí, Vạn vật, Vệ Sinh, Ðạo Ðức, Gia Ðình...

Chưa có dịp tìm một cách chính xác xem coi bộ QVGKT xuất bản đầu tiên năm nào, nhưng theo bản mà chúng tôi đọc, xuất bản năm 1939 thì đã in lần thứ mười ba. Như vậy án chừng sách xuất bản đầu tiên vào những năm đầu thế kỷ 20.

QVGKT là bộ sách giáo khoa đầu tiên của Việt Nam, dành cho học trò cấp Sơ Ðẳng ( Cấp I, Tiểu học ngày nay) từ Bắc vào Nam. Tuy là sách do thực dân Pháp chủ trương nhưng thực tình mà nói nó có giá trị giáo dục, Sư Phạm rất cao, mà tới nay chưa có bộ giáo khoa Việt Nam nào bì kịp; dù trong đó có dấu ấn chính trị thực dân! Mỗi bài trong sách đều có hình vẽ, theo lối tranh khắc trên gỗ, nét vẽ chân phương phản ảnh nội dung chứa đựng trong bài gây ấn tượng mạnh đối với đọc giả tí hon và người lớn nữa.

Các tác giả viết rất dễ hiểu, đơn giản câu văn ngắn, dùng chữ gợi hình, gần gũi với tuổi thơ Việt Nam. Cuối bài, tác giả tóm lại ý nghĩa bằng một câu "toát yếu", mang tánh giáo dục về đạo đức, luân lý, như là mặc nhiên, không cần giải thích.

Thí dụ:

Anh em như thể tay chân...

hay:

Cờ bạc là bác thằng bần...

Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh...

Học trò phải biết ơn thầy...

Ði một ngày đàng, học một sàng khôn...

Toàn bộ nội dung bộ sách QVGKT phản phất toàn cảnh đất nước thanh bình, ấm no, hạnh phúc, mưa thuận gió hòa (?).

Qua đó giáo dục tuổi thơ yêu quê hương, xóm làng, bè bạn, ông bà, thầy giáo... rất nên thơ, lãng mạn, đậm đà bản sắc, dễ nhớ, khó quên.

Chúng ta quen dùng một số câu, vài đoạn, một đầu bài trong sách QVGKT một cách tự nhiên, nhập tâm mà không biết của QVGKT. Mời quý bạn đọc lại mấy câu:

Con ơi, muốn nên thân người.

Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha... ( Lời khuyên con)

Thương người như thể thương thân ( Tựa bài tập đọc)

Tháng giêng là tháng ăn chơi...(Bài công việc nhà nông quanh năm)

Ðêm qua ra đứng bờ ao.

Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ...(Vì nhớ mà buồn)

Ở xa xứ, tuổi già bóng xế... đọc lại vài câu, vài bài, nhìn lại hình ảnh vẽ trong QVGKT... ôi thấm thía làm sao! Có một người bạn cùng trường Ðại Học Sư Phạm Saigon năm xưa, điện thoại khoe với tôi rằng anh vừa nhận được bỘ QVGKT do đồng nghiệp từ Canada gởi tặng. Anh kể cho tôi nghe xúc cảm của anh khi đọc lại bộ sách mà anh đã học 50 năm trước.

Anh chia xẻ kỷ niệm và cảm xúc ấy với tôi, tôi rất đổi nghẹnï ngào, nhắc lại bộ QVGKT, dù lúc đó tôi chưa có sách QVGKT trên tay. Tôi ra các nhà sách khu Little Saigon, tìm mua cho được bộ QVGKT. Ai đó đã cho in lại, có lẽ in lậu bộ QVGKT do nhà xuất bản Trẻ ở Saigon tái bản năm 1996. Hình ảnh nhòe nhoẹt, bố cục, mục lục lộn xộn.

Quí ông Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Ðặng Ðình Phúc và Ðỗ Thận đồng tác giả, nay đã ra người thiên cổ. Nha học Chánh Ðông Pháp cơ quan ( chủ trương) xuất bản đã thuộc về quá khứ mà không ai muốn nhắc tới; nhưng chúng ta, là một độc giả, là người học trò cũ của QVGKT lạc loài xa xứ, xa quê, thấy cảnh in lâu sách QVGKT thì làm gì có " Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư" như chuyện nhà văn Sơn Nam kể trong tập truyện "Hương Rừng Cà Mau " của ông!!!

Cali - Mùa bãi trường

GS Trần Văn Chi

***

Bài 2: Bài Học Ðúng Giờ

Xuân đi học coi người hớn hở,

Gặp cậu Thu đi ở giữa đàng,

Hỏi rằng: " Sao đã vội vàng,

Trống chưa nghe đánh đến tràng làm chi"?

Sau nửa thế kỷ mà tôi vẫn còn xúc động khi đọc lại bài tập đọc lớp Sơ Ðẳng mà học trò thuở ấy ai cũng thuộc. Bài đọc thể song thất lục bát: "Ði học phải đúng giờ " mở đầu cho giáo trình lớp Sơ Ðẳng.

Không phải tự nhiên mà tác giả đưa bài "Ði học phải đúng giờ" lên đầu cuốn sách. Ý nghĩa bài tập đọc dạy cho học sinh phải đúng giờ, đã in sâu vào thế hệ trẻ Việt Nam thuở xưa, thành thói quen, như một thứ kỷ luật, để sau này thành những công dân biết tôn trọng giờ giấc trong các sinh hoạt. Thật vậy, hồi xưa xứ mình làm gì có đồng hồ, người ta đo thời gian: ngày thì nhìn mặt trời, đêm nghe tiếng gà gáy, chim kêu. Nông nhân nhìn nước sông lớn, ròng để biết thời gian, hoặc đo thời gian bằng bao nhiêu hơi thuốc hút, hoặc một nửa bả trầu! Các nơi công quyền thì tính thời gian theo canh giờ ( 3 giờ đồng hồ) và được báo bằng tiếng trống; nên sát suất chênh lệch hai hoặc ba giờ đồng hồ là thường. Ta nghe câu nói:

"Quan cần dân trễ "

Xưa nay là như vậy đó!!!

Học trò ngày xưa ít khi có đi học trễ. Học trò đi trễ không dám vô trường, cha mẹ anh chị phải dắt vô lớp. Thuở ấy đi học trễ dù có lý do chính đáng đều rất xấu hổ, mắc cở với bạn bè. Trường tôi có 3 lớp và 3 phòng học. Cái trống treo ở lớp Sơ Ðẳng, ở cuối phòng học. Thầy giáo phân cho trò lớn nhất lớp, thường là trưởng lớp, thủ đánh trống.

Học trò thuở đó ở xa trường, tận trong vườn, trong ruộng... vì hai ba làng mới có một trường học sơ học (Cấp I). Chúng tôi lúc đó đến trường rất sớm có khi cả hai tiếng đồng hồ và chơi đùa quanh trường học, ở nhà lồng chợ gần bên trường. Nghe ba hồi trống là chuẩn bị tề tựu về trường; rồi nghe một hồi trống sau đó (độ 15 phút) là chạy về lớp sắp hàng, rồi nghe 3 tiếng trống (độ 5 phút) là vào lớp theo sự hướng dẫn của thầy cô.

Cái trống báo giờ ngày xưa mà tôi được biết là nhờ được đi học và thói quen đúng giờ cũng do đó mà có.

Sau này ra tỉnh học Cours Moyen rồi lên lớp nhứt, tôi vẫn còn nhờ tiếng trống mà biết thời gian vào lớp đúng giờ. Trường tỉnh có cổng ra vào, mở đóng đúng giờ, và tôi chưa một lần bị nhốt ngoài cổng vì đi trễ. Lúc này ở nhà tôi có mua được cái đồng hồ hiệu con gà trống của Tây, số có màu xanh dạ quang, ban đêm nhìn rất đẹp; và má tôi trịnh trọng để ở bàn thờ giữa trước lư hương, có nhiều người hàng xóm đến coi giờ.

Rồi cái đồng hồ tay hiệu Cita (?) đầu tiên tôi có được khi vào lớp đệ Thất ( lớp sáu ngày nay) luôn bên tay nhắc tôi phải đúng giờ.

Xuân và Thu là hai chú học trò lớp Sơ Ðẳng đối đáp trong bài tập đọc " Ði học phải đúng giờ", 50 năm xưa vẫn gây cho tôi nhiều ấn tượng khó quên. Kỷ niệm học trò nên thơ cũng như kỷ niệm về cái trống báo giờ đến trường, là bài học đúng giờ mà QVGK đã dạy tôi từ lúc bé.

Ngày nay, chúng ta có rất nhiều dụng cụ đo giờ, báo giờ. Ðồng hồ tay, đồng hồ trên xe, đồng hồ trong điện thoại, trên radio, trên T.V, trên tủ lạnh, trên microwave... Nó ở nơi làm nơi ngủ, nơi làm vệ sinh... chỗ nào cũng có đồng hồ.

Thế mà chúng ta cố tình không thấy, không nghe, không care, không mắc cỡ... đủ "Bốn Không " để đi trễ! Ði đám cưới trễ, đi hợp trễ, đi xem hát trễ,..v..v..

Dù nhớ, dù quên QVGKT, nhưng chắc chúng ta còn nhớ 4 câu thơ song thất lục bát:

Xuân đi học coi người hớn hở,

Gặp cậu Thu đi ở giữa đàng,

Hỏi rằng: "Sao đã vội vàng,

Trống chưa nghe đánh, đến tràng làm chi?"

nhắc nhở chúng ta bài học: Phải đúng giờ.

***

Bài 3: Chỗ quê hương đẹp hơn cả

Ngày xưa người mình sanh ra ở đâu chỉ biết ở đó. Có người cả đời chưa biết tỉnh thành, phố chợ là gì! Ở xứ Nam Kỳ từ khi Tây vào thì hai hoặc ba làng mới có một cái chợ. Hồi còn nhỏ, được mẹ dẫn đi chợ là mừng húm; vì đi chợ là cái gì "ghê lắm". Hồi đó chưa có khái niệm " văn minh", " thành thị". Người dân ở ruộng rẫy, nông dân nói chung được Tây gọi là "nhà quê" có nghĩa là quê mùa, dốt nát, nghèo khổ... trong đó có ý khi thị! ( le nhà quê) .

Ở quê tôi, mỗi sáng sớm người ta hay gởi đi chợ, nghĩa là thấy người xóm giềng đi chợ thì nhờ mua đồ giùm mình. Có người lãnh đi chợ mua đồ dùm hai, ba người là thường. Ði chợ, ngoài mua đồ nấu ăn, mẹ tôi thường mua bánh về cho chị em tôi. Bánh là chỉ chung quà ở chợ, như xôi, củ mì, củ lang, bánh bèo, bánh bò... và ít khi mua bánh ở tiệm Tàu như cốm, kẹo, bánh in... vì rất mắc tiền.

Con nít nhà quê không có gì hạnh phúc cho bằng trông mẹ đi chợ về. Mẹ vừa về tới cổng thì con nít la ó lên: "má về, má về..."

Ngày nay trong dân gian có câu nói " trông như trông má đi chợ về", là như vậy đó.

Tuổi trẻ lớn lên, thế hệ chúng tôi chỉ sống với ruộng rẫy, sông rạch, ao làng, đình, chùa, cầu tre, cầu khỉ... và do vậy cảnh nhà quê để lại cho thế hệ chúng tôi nhiều ấn tượng sâu đậm, khó quên.

Cái đó tôi cho là Chỗ Quê Hương. Bạn sống ở vườn quanh năm cây xanh mát, cam quít trĩu nặng trên cành. Khi lớn lên, lưu lạc đó đây, bôn ba vì cuộc sống, nhưng không làm sao bạn quên được Chỗ Quê Hương ấy của bạn.

Có bạn sống ở đồng (1), lớn lên gần gũi với vườn cà, líp rau, líp cải hay nộc trầu...; có bạn quanh năm sống trên ghe, trên tam bản, xuôi ngược sông hồ; còn tôi lớn lên ở ruộng rẫy (2); sông nước 6 tháng ngọt, 6 tháng nước mặn, quen bắt cồng, bắt cua, chăn vịt... Mỗi người chúng ta có một Chỗ Quê Hương trong lòng. Ðúng như bài hát " quê hương mỗi người có một" là như vậy.

Nhớ lại năm xưa, lên tỉnh học, cuối tuần mới được về nhà; đạp xe trên đường làng, qua hai ba khúc quẹo, nhìn xa xa, xóm nhà mình hiện ra... lòng rộn lên nỗi vui mừng khó tả!!!

Tình cảm ấy ngày càng sâu đậm hơn mãi khi sau này tôi lên Saigòn học hành và làm việc.

Càng đi xa, càng bôn ba đây đó, càng đi thăm viếng đó đây, thì càng thấy yêu thương Chỗ Quê Hương mình hơn.

Nay đọc lại Quốc Văn Giáo Khoa Thư (QVGKT), mới thấy thương cho các tác giả và thông cảm nỗi lòng yêu quê hương của quý ông. Bài tả câu chuyện Người đi du lịch về nhà; xin trích ra đây:

"Một người đi du lịch đã nhiều nơi. Hôm về nhà, kẻ quen người thuộc, làng xóm, láng giếng đến chơi đông lắm. Một người bạn hỏi: Ông đi du sơn du thủy, thế tất đã trông thấy nhiều cảnh đẹp.Vậy ông cho ở đâu là thú hơn cả?"

Người du lịch đáp lại rằng: " Cảnh đẹp mắt tôi trông thấy đã nhiều, nhưng không đâu làm cho tôi cảm động, vui thú bằng lúc trở lại chốn quê hương, trông thấy cái hàng rào, cái tường đất củ kỷ của nhà cha mẹ tôi. Từ cái bụi tre ở xó vườn, cho đến con đường khúc khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi ra cho tôi những mối cảm tình chứa chan, kể không sao xiết được." - (Hết trích)

Tác giả chọn tựa cho bài trên là " Chỗ quê hương đẹp hơn cả "

Tựa của bài tập đọc nói về " Người đi du lịch về nhà" thật đơn giản nhưng có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, đọc ai cũng hiểu và đúng với tình cảm của mọi người chúng ta.

Trên năm mươi năm, đọc lại QVGKT trong tâm cảnh làm người ly hương, thì thật vô cùng cảm động, và thấm thía biết chừng nào với câu "Chỗ quê hương đẹp hơn cả."

Chỗ quê hương trong mỗi chúng ta rất nhỏ bé, đơn sơ, không cần ai tô vẽ, bảo ta thương, bảo ta nhớ... nhưng sao nó mãi mãi chiếm trong tim ta một chỗ to lớn và mãi mãi bắt ta phải nhớ, phải thương.

Phải chăng chính Chỗ Quê Hương ấy nó nuôi lớn chúng ta, giúp chúng ta sống mãi mãi như là người Việt Nam?

Nên dầu ở đâu, tôi vẫn thấy quê hương Việt Nam của tôi là đẹp hơn cả...

(1) Ðồng: là vùng đất khô, nước sông không lên tới, làm ruộng nhờ mùa nước mua, trồng rau, cải vào mùa nắng tưới bằng nước ao, nước giếng.

(2) Ruộng rẫy: ruộng vùng nước mặn, mùa mưa tưới ngặp, đẩy nước mặn ra biển như vùng Gò Công Ðông Tiền Giang và một phần ở Bến Tre.

***

Bài 4: Phải giữ tấm lòng cho trong sạch

Quốc Văn Giáo Khoa Thư (QVGKT) lớp Dự Bị bài số 39 là bài học thuộc lòng Bài ca dao: "Con cò mà đi ăn đêm". Xin trích:

"Con cò mà đi ăn đêm

Ðậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.

Ông ơi ông vớt tôi nao!

Tôi có lòng nào, ông hãy xáo măng.

Có xáo thì xáo nước trong

Ðừng xáo nước đục đau lòng cò con". (hết trích)

Bài học thuộc lòng, mà "thuở còn thơ", hai buổi đến trường.. tuổi trẻ của học trò chúng tôi thường ê a, vì đây là bài ca dao, thể lục bát, dễ thuộc, dễ nhớ. Năm mươi năm, nay đọc bài xem như mới ngày nào, đầu còn hớt tóc móng ngựa (1), mang cái cặp đệm (2) tung tăng đến trường làng, xa trên 5 cây số. Tuổi của chúng tôi mà có được "ba chữ" bỏ trong bụng, đọc được truyện Phạm Công Cúc Hoa, Thạch Sach Chém Chằng, hoặc viết được tờ đơn xin phép làng cho đám giỗ (3) là quý hơn vàng. Thuở nhỏ thích lật sách để coi hình, nhiều khi thích hơn là đọc nữa.

Trong bộ QVGHKT, mỗi bài đều có một cái hình minh họa cho nội dung bài học. Hình trong QVGKT vẽ đơn giản, chơn phương, in theo kiểu tranh khắc trên gỗ. (Nay thì kỹ thuật in đã qua thời kỳ Typo, chữ đúc bằng chì, hình làm bằng cliché đến thời in kỹ thuật offset hiện đại bốn màu).

Họa sĩ vẽ hình con cò đậu trên cành tre, cành mềm như sắp gẫy, vẽ ủ rủ như sắp rớt xuống ao, mặt nước ao êm đềm cảnh đêm tối vào mùa thu thảm não...

Hình ảnh và sáu câu thơ lục bát nhìn và đọc lại mới thấy thương cho thân phận con cò. Con cò trong mắt của người mình, theo dân giả, hay theo thi nhân... là hình ảnh người mẹ Việt Nam. Thân cò lặn lội là hiện thân người mẹ quê tần tảo một nắng hai sương vất vả đêm ngày để nuôi con....

Hình ảnh người mẹ Việt Nam càng tuyệt diệu biết bao khi chúng ta đang sống ở Hải Ngoại, tại đây ta biết được thế nào là người mẹ Hoa Kỳ, người mẹ Mễ Tây Cơ hay người mẹ Tây mẹ Ðức ở bên trời Âu.

Quả thật bà mẹ Việt Nam của chúng ta tuyệt vời và nói như thế không có gì là cường điệu cả.

Ta hãy đọc lời của tác giả trong QVGKT phần Ðại ý sau đây -- Xin trích:

" Bài này mượn chuyện con cò mà ngụ ý luân lý rất cao. Con cò xa xuống nước, người ta bắt được sắp đem làm thịt, mà nó vẫn xin nấu bằng nước trong, để cho chết cũng được trong sạch. Cũng như người ta nghèo khó đi làm ăn lỡ sa co thất thế, bị phải tai nạn, nhưng bao giờ cũng giữ lấy tấm lòng trong sạch, không làm gì ô uế ". Hết trích.

Con cò, người mẹ luôn luôn sống vì đàn con và chết cũng vì đàn con:

"Có xáo thì xáo nước trong,

Ðừng xáo nước đục đau lòng cò con."

Bài luân lý, ẩn du qua hình ảnh con cò, QVGKT dạy cho học trò bài học có giá trị muôn đời. Ở chúng ta, mỗi người một hoàn cảnh, một vị trí trong xã hội, mỗi người ai cũng có hình ảnh người mẹ mà mình trân quý: Mẹ của Thầy Tử Lộ, mẹ của vua Tự Ðức, bà mẹ quê trong tác phẩm của Phạm Duy, bà mẹ của Y Vân trong bài Lòng Mẹ, dù mẹ của bạn hay mẹ của tôi tất cả như nhau nào có phân biệt mẹ của vua, mẹ của quan, mẹ giàu mẹ nghèo...

Thuở nhỏ, cuối tháng, cuối tam cá nguyệt hay cuối năm tôi đem sổ học bạ hay sổ điểm, sổ danh dự về cho mẹ tôi ký, mẹ tôi ký quằn quèo có lúc ký chữ thập... Mẹ tôi là như thế nhưng thương con vô bến bờ lo cho con đến khi chết. Nhớ lại, sau này tôi đã thành danh, đi xe hơi có người lái, nhà ở có người hầu nhưng tôi vẫn thích được mẹ tôi nấu cho tôi ăn, thích ngủ với mẹ mỗi khi về quê!!!

Người mẹ Việt Nam chúng ta ai ai và lúc nào cũng muốn "giữ tấm lòng trong sạch " và đó là bài học sống mà tôi ấp ủ, mang theo trên bước đường lưu lạc.

Nay thì mẹ đã qua đời, ở tuổi 92, tuổi thượng thọ. Ngày lễ tang mẹ trên bàn thờ tôi chưng cặp đèn cầy nhỏ để mừng cho mẹ đã thượng thọ. Tôi nói lời "mừng vĩnh biệt" trước lúc di quan, trước hằng trăm thân quyến bạn bè và gia đình mà nước mắt ràng rụa, nghẹn ngào...

Ðọc lại bài con cò mà đi ăn đêm với ý nghĩ luân lý, lời dạy của mẹ phải giữ lấy tấm lòng cho trong sạch như tưởng nhớ đến mẹ tôi và mẹ của những người không may không còn mẹ.

Nhân mùa Vu Lan đọc lại QVGKT, hình ảnh con cò gợi tôi nhớ mẹ biết dường nào.

Mừng cho ai còn mẹ

Và xin chia xẻ nỗi đau những ai mất mẹ.

Hãy vì mẹ mà mỗi người chúng ta phải giữ tấm lòng cho trong sạch.

Mùa Vu Lan nơi xứ người

Ghi chú:

(1) Hớt tóc ngắn, gần như cạo trọc phía trước cao hơn phía sau giống như hình cái móng ngựa.

(2) Cặp học trò xưa dùng đựng sách vở để ôm đi học, giống như cặp da ngày nay nhưng làm bằng cỏ đệm chỉ có ở miền Nam, loại đệm dùng để đan nớp.

(3) Thời xưa ơ û trong làng muốn làm đám giỗ phải làm đơn xin phép.

***

Bài 5: Sống ở làng, sang ở nước

Thuở xưa, người mình lúc Tây chưa vô thì đa phần sống ở thôn quê. Bấy giờ nước ta chưa có thành thị. Người dân đâu ở đó, trao đổi hàng hóa sản phẩm ở chợ quê. Nền kinh tế của mình là nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp.

Làng Việt Nam là đơn vị hành chánh co sở nhỏ nhất, nhưng nó là cơ bản của xã hội ta bấy giờ. Làng còn là chỗ tập hợp sinh hoạt của cộng đồng dân chúng; nơi đó ngoài trụ sở hành chánh, trong Nam gọi là Nhà Việc (như ở Mỹ gọi là Civic Center) còn có Ðình và Chùa.

Mọi sinh hoạt của người dân đều xoay quanh đình và chùa. Làng nào trong Nam cũng đều có đình. Ðình là nơi thờ thần của làng. Sắc thần do vua ban, được giữ kỷ trong cái hộp gỗ do một kỳ lão cất giữ hàng năm vào ngày hội cúng đình, sắc mới được thỉnh đem về Ðình làm lễ cúng. Ðình do quỹ chung của làng đóng góp xây dựng, gọi là quỹ công nho (1).

Trái lại, chùa do cá nhân xây dựng nên, rồi thỉnh sư về trụ trì. Thuở xưa, trong xứ Nam Kỳ các nhà giàu thường dựng chùa để làm phước và còn hiến cho chùa đất vườn, đất ruộng để làm có tịnh tài lo cho chùa. Phật giáo Việt Nam, xứ trong Nam hình thành như vậy chớ làm gì có giáo hội gì đâu.

Tùy hoàn cảnh, tùy duyên mà chùa và đình được xây dựng nên không có kế hoạch, và cơ sở không tập trung xung quanh Nhà Việc.

Ðình và Chùa còn là nơi giải quyết hầu hết những mâu thuẩn, vướng mắc tình cảm, pháp lý của dân làng. Tuy chế độ Việt Nam xưa là phong kiến trung ương tập quyền, nhưng làng ở Việt Nam mang tính tự trị, không như làng ở Châu Âu.

"Phép vua thua lệ làng"

Câu nói trong dân gian xưa nay nói lên tánh xã thôn Việt Nam mình ngày xưa là " dân chủ cấp cơ sở" rất cao. Pháp vào cũng coi đó là nét độc đáo và duy trì ở xứ Nam Kỳ thuộc Pháp; các nhà luật pháp cũng lấy đó mà viết sách, dạy học trong các trường luật Việt trước đây. Trong QVGKT lớp Sơ Ðẳng (lớp nhứt trường làng) có bài "Làng Tôi" xin trích:

"Làng tôi gần ở tỉnh, xung quanh làng có lũy tre, đứng ngoài không nom thấy nhà cửa. Ðầu làng cuối làng có cổng xây bằng gạch", hết trích.

Mấy ông biên soạn (2) tả cái "làng tôi" ở miền Bắc, xứ Bắc Kỳ; nên rất xa lạ với học trò Nam Kỳ lục tỉnh. Do vậy lớp học trò thế hệ chúng tôi tưởng tượng về cái lũy tre đi vào thi ca văn chương trong Nam Kỳ, mà sự thực người ở Nam Kỳ không có khái niệm gì về lũy tre cả.

Giống như thanh niên Việt Nam thế hệ thập niên 50, 60 thích nói về " giòng sông Seine" về "gare lyon đèn vàng!!!" (4).

Cũng giống như trường hợp Tự Lực văn Ðoàn. Số là khi " nước nhà độc lập", cụ Hoàng Xuân Hán soạn ra chương trình giáo dục đầu tiên, cụ đưa mấy tác phẩm trong Tự Lực Văn Ðoàn vào chương trình Trung Học. Sự thể làm cho cả thế hệ học trò miền Nam tưởng rằng trong lục tỉnh cũng có cô Loan hoặc các ông bà Phán!!!. Thật tình trong xứ Nam Kỳ xưa, xã hội đâu có phong kiến như thế, nên đâu nhứt thiết phải "đoạn tuyệt" như cô gái Loan đoạn tuyệt gia đình chồng! Bài "Làng tôi" trong QVGKT, tả cảnh "làng tôi" êm đềm thơ mộng, cuộc sống bình dị,in đậm trong trí mọi người. Xin trích:

"Trong làng có nhà cửa phần nhiều là nhà lá. Nhà nào cũng có sân có vườn, hoặc có ao nữa, xung quanh có hàng rào tre. Ngoài vườn thì trồng rau, khoai cùng các thứ cây có quả.

Ðường sá thì chỉ có con đường chạy thẳng qua làng là rộng, còn thì những lối đi hẹp, khúc khuỷu quanh co". Hết trích.

Cuối bài " Làng tôi", tác giả "toát yếu" bằng câu: Sống ở làng, sang ở nước.

Ðây là chủ đích của QVGKT, nên bài nào tác giả cũng tóm bằng một câu tạo ấn tượng và giáo dục học trò. Ðúng là cái tâm cảnh người Việt ta xưa kia là như thế, mà ngay cả ngày nay cũng còn. Làng là nơi thể hiện tình cảm gắn bó, tương lân xóm chòm, khi " tối lửa tắc đèn" (5) vui buồn, hoạn nạn có nhau. Những biểu hiện tiêu cực, xấu xa, vô đạo đức không thể tồn tại. Do vậy vì "sống ở làng" nên mọi người phải tử tế làm cho cộng đồng an cư thịnh vượng, mọi người thấy bình an. Từ ở làng con người vươn ra xã hội xung quanh lớn hơn, để thi thố, đun chí nam nhi mà đóng góp cho nước. " Sang ở nước" là ý đó. Ðem chí tang bồng trả ơn vua, lộc nước, mới làm cho con người nam nhi sang chữ " Sang" ở đây không phải sang vì của, vì tiền, vì ruộng đất; mà "sang vì nước" là hiểu theo nghĩa góp đến nợ nước, ơn vua.

Do vậy, con người ta, con người đặc biệt Việt Nam ly hương; ai cũng có muốn đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng " quê hương xứ sở"; nếu không thì cảm thấy cuộc đời vô nghĩa, như cây cỏ vô tri!!!

Năm mươi năm, đọc lại QVGKT, nhân bài "làng tôi" với câu:

Sống ở làng, sang ở nước khiến thắm thía làm sao nhứt là càng về già.

Giá trị của QVGKT mãi mãi ở trong lòng thế hệ của chúng tôi, ngoài những kỷ niệm về thời thơ ấu, nó còn có giá trị về giáo dục cao, mãi tới nay vẫn còn như vậy.

Ghi chú:

(1) Công nho: do đọc trại chữ "công nhu" là quỹ dành cho việc chung, nhu cầu chung.

(2) Ô. Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Ðặng Ðình Phúc và Ðỗ Thận.

(3) Lũy: bờ đất tre trồng làm hàng rào (giải nghĩa QVGKT).

(4) Sông Seine chảy qua Paris, "Ga Lyon đèn vàng" là ga xe lửa tên Lyon ở thủ đô Paris

(5) Ý nói khi gặp hoạn nạn khẩn cấp cần giúp (emergency).

 

 

Cách thức mừng Mùa Vọng

 Cách mừng Mùa Vọng

https://www.curateministries.org/curateblog/2020/how-to-celebrate-advent?rq=Scott

Một số châm ngôn của người Do Thái

 "Mọi người thường tránh đưa ra quyết định vì sợ mắc sai lầm. Thực ra, việc không đưa ra quyết định là một trong những sai lầm lớn nhất của cuộc đời." – Rabbi Noah Weinberg.

 

14. “Ai là người khôn ngoan? Người học hỏi từ mọi người… Ai là người mạnh mẽ? Người chế ngự được khuynh hướng của mình… Ai là người giàu có? Người hài lòng với số phận của mình… Ai là người đáng kính? Người tôn trọng đồng loại.” – Ben Zoma, Đạo đức của các Giáo phụ, 4:1

Đây là câu tục ngữ Do Thái yêu thích của tôi vì nó đảo ngược định nghĩa của xã hội chúng ta về những điều này. Chúng ta thường nghĩ rằng sức mạnh, hạnh phúc, trí tuệ và danh dự phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài – bạn giàu có bao nhiêu, bạn mạnh mẽ đến mức nào, bạn hiểu biết bao nhiêu… Trí tuệ Do Thái cho thấy cả bốn điều này đều nằm ở bên trong; tất cả phụ thuộc vào chính con người bạn. Muốn giàu có? Vấn đề nằm ở thái độ của bạn, chứ không phải bạn có bao nhiêu tiền. Muốn thông minh? Bạn không cần gen của Einstein, chỉ cần khả năng mở mắt và quan sát mọi người xung quanh. Muốn mạnh mẽ như một anh hùng? Nó nằm ở trong trái tim bạn – chỉ cần đủ mạnh mẽ để làm điều đúng đắn. Nir Greenberger

 

. "Torah không phải là giáo dục, mà là sự biến đổi." – Rebbitzen Dena Weinberg

Nếu bạn chỉ học Torah để có kiến ​​thức mà không phát triển và thay đổi bản thân, thì bạn không thực sự học Torah. Bonnie Cohen

 

"Nếu ngày mai bạn không phải là một người tốt hơn ngày hôm nay, thì bạn cần gì đến ngày mai?" – Rebbe Nachman của Breslov

Mục đích của cuộc sống con người là hoàn thiện nhân cách bằng cách trau dồi bản thân mỗi ngày. Đó là lý do tại sao Chúa ban cho chúng ta hôm nay – và cả ngày mai. Sara Yoheved Rigler

 

Nguồn: https://aish.com/20-favorite-jewish-quotes/

Chủ Nhật, 7 tháng 9, 2025

ĐỌC SÁCH “SƠ HỌC LUÂN LÝ” của TRẦN TRỌNG KIM

Nguồn: https://diendankhaiphong.org/doc-sach-so-hoc-luan-ly-cua-tran-trong-kim/ 

Phần I – Tác giả: Nguyễn Sơn Hùng

Lời mở đầu

Trong quá trình tìm hiểu Luân Lý Giáo Khoa Thư, người viết biết được trước đó cụ Trần Trọng Kim đã viết Sơ Học Luân Lý. Sách Luân Lý Giáo Khoa Thư gồm có 3 quyển dành cho các lớp Đồng Ấu (học sinh khoảng 7 tuổi), lớp Dự Dị (khoảng 8 tuổi), và lớp Sơ Đẳng (khoảng 9 tuổi) của bậc Tiểu học. Từ ngữ “Sơ học” dùng để chỉ bậc học sau khi tốt nghiệp lớp Sơ Đẳng.

Sách Sơ Học Luân Lý mà người viết tìm được trên Internet là phiên bản do nhà xuất bản Tân Việt tái bản vào năm 1950 (1). Theo lời nhà xuất bản trong sách này viết, sách đã được xuất bản năm 1919. Tuy nhiên có tài liệu, thí dụ như trong Wikipedia tiếng Việt hoặc trong phần giới thiệu tác giả của nhà xuất bản in lại sách trên gần đây, viết sách được xuất bản đầu tiên vào năm 1914. Trong khi sách Luân Lý Giáo Khoa Thư được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1925 (2).

Sách Sơ Học Luân Lý được Nhã Nam & nhà xuất bản Hồng Đức in lại năm 2020 và nhà xuất bản Trẻ in lại năm 2021.

  1. Giới thiệu sơ lược nội dung sách

1.1   Mục lục sách

Để quý độc giả có thể biết được sơ lược của nội dung sách, người viết ghi lại mục lục dưới đây.

MỤC LỤC

TỰAIX-X
Bài mở13-15
GIA TỘC LUÂN LÝ17
Bổn phận ở trong gia tộc: 2) Đạo làm con ở với cha mẹ,3) Lòng yêu mến, 4) Tôn kính, 5) Vâng lời, 6) Biết ơn19-27
Con cháu ở với ông bà28
Thờ kính tổ tiên30
Ở với họ hàng33
Ở với anh chị em: 1) Anh em chị em, 2) Bổn phận người làm anh làm chị, 3) Anh em phải hòa mục, 4) Chuyện ba anh em họ Điền 35-41
Ở với đầy tớ: 1) Những đầy tớ, 2) Bổn phận chủ nhà ở với đầy tớ, 3) Bổn phận người làm đầy tớ, 4) Bổn phận con cái ở với đầy tớ 42-46
Đối với những người bạn hữu quen thuộc nhà mình47
Đối với láng giềng49
Sự sum hợp (*) trong gia tộc: 1) Sự sum hợp (*), 2) Lòng vị gia tộc, 3) Ngày giỗ ngày tết và sự đoàn viên tụ hội51-55
HỌC ĐƯỜNG LUÂN LÝ57
Sự đi học: 1) Sự đi học, 2) Bổn phận mình phải đi học, 3) Sự đi học có ích lợi, 4) Sự chăm học, 5) Đi học phải đúng giờ, 6) Sự chú ý, 7) Sự học vấn và sự giáo dục 59-66
Bổn phận ở với thầy: 1) Biết ơn thầy, 2) Tôn kính thầy, 3) Yêu mến thầy, 4) Vâng lời thầy 67-71
Bổn phận ở với anh em bạn học: 1) Tình hữu nghị ở học đường, 2) Chuyện Lưu Bình Dương Lễ, 3) Phải giúp đỡ lẫn nhau, 4) Bênh vực người hèn yếu, 5) Đừng thóc mách 72-76
Tính hạnh người học trò: 1) Sự ganh đua trong học đường, 2) Nghĩa đoàn thể ở học đường, 3) Tính sạch sẽ, 4) Tính có thứ tự, 5) Tính cần mẫn, 6) Tính lười biếng, 7) Tính khinh suất,8) Tính ngang ngạnh, 9) Tính khoe khoang và kiêu ngạo,10) Tính ghen ghét và độc ác, 11) Tính tức giận, 12) Danh dự nhà học đường  77-87
BẢN THÂN LUÂN LÝ89
Bổn phận đối với thân mình: 2) Vệ sinh, 3) Sạch sẽ, 4) Tiết độ, 5) Nghiện ngập và rượu chè, 6) Tập thể thao91-102
Bổn phận đối với cảm tình: 1) Cảm tình, 2) Tính tự kỷ,3) Tính hay giận dỗi, 4) Tính nhát sợ, 5) Tính ham mê cờ bạc103-108
Luyện tập những cảm tình tốt: 1) Những cảm tình tốt, 2) Tính hồn hậu, 3) Tính nhẫn nhường, 4) Tính từ ái109-111
Bổn phận đối với trí tuệ: 1) Trí tuệ, 2) Sự phán đoán, 3) Sự nói dối, 4) Sự kín đáo, 5) Sự khôn ngoan, 6) Sự thành thực112-116
Bổn phận đối với ý chí: 1) Ý chí, 2) Dũng khí117-119
Bổn phận đối với những ngoại vật: 1) Của ngoại vật, 2) Cái thực giá của những ngoại vật, 3) Sự làm lụng, 3) Sự tiết kiệm, 4) Tính biển lận, 5) Tính hào phóng, 6) Tính xa xỉ, 7) Tính liêm sỉ 120-129
XÃ HỘI LUÂN LÝ131
Bổn phận mình ở trong xã hội, 2) Nghĩa đoàn thể ở trong xã hội133-136
Công bằng và nhân ái137-138
Phải trọng tính mệnh của người ta139-140
Phải trọng của cải của người ta: 1) Của cải của người ta,2) Trộm cắp141-143
Phải trọng danh giá của người ta: 1) Danh giá, 2) Sự nói xấu,3) Sự nói vu, 3) Sự mật tố144-149
Lễ phép150-152
Sự biết ơn nghĩa153-154
Lòng nhân ái: 1) Lòng nhân ái, 2) Việc bố thí, 3) Sự ái quần,4) Tính hữu ái, 5) Lòng thí xả155-161
Bổn phận đối với cầm thú162-163
Mấy cái nghĩa vụ yếu trọng đối với nước: 1) Bổn phận làm dân trong nước, 2) Phải tuân kính pháp luật, 3) Phải đóng thuế164-166
TỔNG KẾT167-169
MỤC LỤC170-172

Nguyên bản viết “sum hợp”, ngày nay viết “sum họp”. Người viết cố gắng giữ trung thực các từ ngữ trong nguyên bản.

Ghi chú

Người viết cố gắng ghi chép lại đúng như sách in trong phiên bản năm 1950 nhưng để quý độc giả dễ nắm được bố cục sách và không chiếm nhiều chỗ trong bài viết nên đã thay đổi một ít cách trình bày như sau.

Phần “Gia tộc luân lý”gồm có 9 bài. Trong sách không có dùng từ “bài”. Từ “bài” ở đây dùng để chỉ của mỗi phần có ghi “Toát yếu” (tóm tắt nội dung quan trọng) sau mỗi bài. Trong sách cũng không có đánh số cho mỗi bài.

Đối với “1. Bổn phận ở trong gia tộc”, trong sách không có tựa chung cho cả các mục sau mà viết trực tiếp: 1. Bổn phận ở trong gia tộc, 2. Đạo làm con ở với cha mẹ…6. Biết ơn. Trong bảng mục lục trên ghi: 1. Bổn phận ở trong gia tộc: 2) Đạo làm con ở với cha mẹ….6) Biết ơn. Nghĩa là không có mục 1). Trường hợp của “1.Bổn phận đối với thân mình” trong phần “Bản thân luân lý” cũng tương tự.

Đối với “5.Ở với anh chị em”, sách đặt “Ở với anh chị em” là tựa chung cho cả phần sau và chia: 1. Anh em chị em, 2. Bổn phận người làm anh làm chị…4. Chuyện ba anh em họ Điền, nên sau “5. Ở với anh chị em”, có mục 1) Anh em chị em, khác với trường hợp của “1. Bổn phận ở trong gia tộc” ở trên.

Sách giảng giải về luân lý của 4 phạm vi: 1) gia tộc gồm có 36 trang, 2) học đường 28 trang, 3) bản thân 38 trang, và 4) xã hội 33 trang.

   Sau mỗi bài, sách có ghi “Toát yếu” tóm tắt các điểm quan trọng của bài và có mục “Đầu bài” đặt những câu hỏi và bắt học trò kể những thí dụ để xem học trò có hiểu những điểm chính yếu của bài học không.

1.2   Lời tựa của sách

Về tầm quan trọng của việc dạy luân lý, trong “Tựa” của sách tác giả viết:

Luân lý là một sự quan trọng hơn cả trong sự giáo dục ở sơ đẳng học đường, cho nên chương trình của chính phủ đặt ra phải để mục luân lý đứng đầu cả các mục khác. (Tỉnh lược một đoạn).

Quyển sách hệ trọng cho sự giáo dục của những thiếu niên đi học như thế, thì cần phải cho giản dị, minh bạch, không có chỗ nào là chỗ tối tăm khó hiểu: trước là để cho khỏi sự sai lầm, sau là để tập sự ngôn ngữ và sự phán đoán của trẻ cho ngay chính, phân minh. Ấy là cái chủ đích của các nhà làm sách cho học trò trẻ con học cần phải như thế, thì quyển sách mới có ích vậy.

Về vai trò của sách và thầy dạy, tác giả viết:

Còn như sự dạy luân lý thì người làm thầy cũng phải hiểu rằng sách là thường chỉ để làm qui củ mà thôi, chứ sự dạy cốt ở lời ông thầy nói ra.

Về cách học và dạy luân lý, tác giả viết:

Học luân lý lại cần hiểu rõ mọi ý nghĩa hơn là học nhớ thuộc lòng, cho nên khi giảng bài xong, ông thầy nên bắt học trò nói tóm lại mấy câu những cái đại ý ở trong bài mình dạy, rồi hãy đọc lời toát yếu cho học trò viết vào vở để học thuộc lòng”.

Do đó, đọc sách chúng ta thấy khi bắt đầu mỗi hạng mục, tác giả luôn luôn giảng giải ý nghĩa, lý do phải học hoặc ích lợi của việc học tập hạng mục đó.

1.3   Bài mở đầu

Trong “Bài mở” tác giả bắt đầu:

Các anh ở nhà thì có ông bà, cha mẹ, anh em, chị em; đi học thì có thầy có bạn, rồi sau lớn lên thì có làng có nước. Tự lúc nhỏ cho chí lúc lớn, lúc nào các anh cũng cần phải biết cách cư xử (1) với kẻ nọ người kia cho phải đạo (2). Lại còn mình đối với bản thân mình phải giữ gìn thế nào cho cái phẩm hạnh được thanh cao, cái giá trị được tôn trọng. Những mối ấy đều là mối cốt yếu của sự luân lý vậy.

Nhưng tóm lại mà nói, thì luân lý chỉ cốt có một điều, là khiến cho sự ăn ở của mình thế nào cho hợp với cái đạo thường của người ta trong xã hội. Cái đạo thường đó nói vắn tắt lại, thì chỉ có hai câu mà thôi, là làm điều lành, tránh điều ác.

  1. Cư xử (chữ Hán: tỉnh lược ở đây) là cách ăn ở của mình đối với kẻ khác Manière de se conduire.” (Trang 13).

(2)”Đạo nghĩa đen là con đường đi như là nói đạo lộ đường sá, sơn đạo đường núi, thủy lộ đường bể v.v…Nghĩa bóng là cái tôn chỉ, cái qui tắc để ai cũng phải theo La voie droitte.

1.4   Luân lý đối với gia tộc

Trong phần này, tác giả giảng giải những bổn phận làm người phải có đối với gia tộc, cụ thể đối với 1) cha mẹ, 2) ông bà, 3) tổ tiên, 4) họ hàng, 5) anh chị em. Đặc biệt trong phần này tác giả còn thêm vào đối với 6) đầy tớ, 7) các bạn hữu quen thuộc nhà mình, 8) láng giềng, và 9) sum họp gia tộc. Trong phần đối với cha mẹ, anh chị em, đầy tớ và sum họp gia tộc, tác giả đi vào chi tiết cụ thể hơn.

Về “Đạo làm con ở với cha mẹ”, tác giả trích dẫn câu nói trong chương 3 “Chỉ Ư Chí Thiện” của sách Đại Học ““Vi nhân phụ chỉ ư từ, vi nhân tử chỉ ư hiếu” (*)Nghĩa là làm cha thì cốt phải có lòng từ, làm con thì cốt phải có lòng hiếu. Lòng từ là lòng cha mẹ thương yêu con, lo dạy bảo cho con thành người có đức hạnh. Lòng hiếu là lòng tử tế, của con phải ở với cha mẹ, cho cha mẹ được thỏa lòng.

Sau đó tác giả giảng thêm thế nào là hiếu để rồi tóm tắt lại đạo làm con “cốt yếu phải yêu mến, tôn kính, biết ơn, nghe lời và giúp đỡ cha mẹ.

Kế đến tác giả giải thích cụ thể nội dung và lý do của lòng yêu mến, tôn kính, vâng lời và biết ơn.

Người viết tự hỏi: Ngày nay có bao nhiêu cha mẹ hiểu ý nghĩa của từ “từ” như phần sau của lời giảng giải của tác giả? Ngoài ra, việc hiểu nghĩa “thỏa lòng cha mẹ” theo đúng nghĩa của Khổng học cũng không phải dễ nhưng đó là việc của người lớn, chưa phải là bổn phận của học sinh bậc tiểu học.

Ghi chú

Thứ tự “phụ” và “tử” trong sách Đại Học là “Vi nhân quân, chỉ ư nhân; vi nhân thần, chỉ ư kính; vi nhân tử, chỉ ư hiếu; vì nhân phụ, chỉ ư từ; dữ quốc nhân giao, chỉ ư tín.

1.5   Luân lý ở nhà trường

Trong phần “Sự đi học”, tác giả giới thiệu 1) lý do, 2) ích lợi, 3) mục đích, và 4) thái độ căn bản cần thiết của việc đi học. Theo kinh nghiệm của người viết, đây là nội dung rất cần thiết và quan trọng đối với người đi học không những đối với trẻ em mà ngay cả người lớn nhưng hiếm thấy nhà trường hoặc trong xã hội đề cập đến. Người viết rất có ấn tượng về nội dung mà tác giả giải thích giáo dục là gì và đoạn cuối của phần này nên xin trích dẫn dưới đây theo thứ tự.

Giáo dục là nói chung cả mọi cách dùng để mở mang trí tuệluyện tập tính tình và giữ gìn thân thể khiến cho đứa trẻ lớn lên có đủ tư cách làm một người hoàn toàn ở trong xã hội.

Các anh phải biết rằng sự đi học là sự rất quan trọng cho người ta, nhưng học thì cần phải mở mang trí tuệ và luyện tập tính tình, thì mới thành được người có học vấn và có giáo dục.”

Tác giả có chú thích “hoàn toàn” là “trọn vẹn”. Người viết thiết tưởng đoạn văn trên được viết trên 100 năm về trước nhưng vẫn ngày nay vẫn còn giá trị, không những cho trẻ em mà cả người lớn và đáng để cho bậc cha mẹ tham khảo để giáo dục, hướng dẫn con cái.

Trong phần “Bổn phận đối với thầy”, tác giả giới thiệu “thầy là người có học thức, cả đức hạnh” và bổn phận của học trò đối với thầy là 1) biết ơn, 2) tôn kính, 3) yêu mến, và 4) vâng lời. Đặc biệt, tác giả cũng nêu ra lý do phải có các bổn phận này và giải thích tại sao thầy yêu mến học trò nhưng phải phạt khi cần thiết. Người viết nghĩ rằng điều này quan trọng trong việc giáo dục trẻ em.

Trong phần “Bổn phận ở với anh em bạn học”, tác giả nói sơ lược lý do phát sinh tình bạn bè ở nhà trường, kể chuyện Lưu Bình Dương Lễ, khuyên nên giúp đỡ lẫn nhau, bênh vực các bạn yếu và không nên thóc mách vì hại người để lấy công là việc xấu.

Trong phần “Tính hạnh người học trò”, tác giả giải thích thế nào là sự ganh đua và tinh thần đoàn thể ở nhà trường, Tuy nhiên nội dung về tinh thần đoàn thể không được phong phú đầy đủ lắm. Các tính tốt người học sinh cần tập luyện là 1) tính sạch sẽ, 2) tính có thứ tự, và 3) tính cần mẫn. Các tính xấu cần tránh là 1) tính lười biếng, 2) tính khinh suất, 3) tính ngang ngạnh, 4) tính khoe khoang và kiêu ngạo, 5) tính ghen ghét và độc ác, và 6) tính tức giận. Cuối cùng tác giả không quên khuyên học sinh cần phải gìn giữ danh dự của trường mình học.

Đặc biệt khi nói về tính cần mẫn, tác giả nêu thí dụ khi học thì hết sức chú ý học nhưng khi chơi đùa thì thật vui vẻ. Khi nói về tính khinh suất tác giả khuyên không nên chơi trò chơi nguy hiểm. Hai điều trên đều giống với nội dung bài tập đọc đầu tiên trong Tiểu Học Độc Bản của thời Minh Trị ở Nhật Bản.

1.6   Luân lý đối với bản thân

Theo người viết, phần này là một trong các đặc sắc của “Sơ Học Luân Lý” vì hiếm có tác phẩm nào đề cập đến nội dung này trong các sách luân lý hoặc đạo đức làm người.

Mặc dù tác giả không nói cụ thể ra nhưng chúng ta có thể thấy trong phần “Bản thân luân lý” gồm có 3 phần chính: 1) phần “Bổn phận đối với thân mình” tác giả đề cập về “thân thể”; 2) phần thứ hai về phương diện “tinh thần” hoặc “linh hồn” gồm có 3 yếu tố chính là “cảm tình”, “lý trí” (được giải thích như “trí tuệ” trong sách) và “ý chí”; 3) phần thứ ba là đối với “đồ vật” hoặc “vật chất bên ngoài” mà tác giả dùng từ “của ngoại vật” để diễn tả.

Như chúng ta biết 3 yếu tố hoặc 3 năng lực của tinh thần con người được Aristoteles (TCN 384~TCN 322), Platon (TCN 427~TCN 347) đề xướng, triển khai và ngày nay vẫn còn được nghiên cứu để áp dụng trong sinh hoạt thực tế. Chúng ta có thể thấy sự học uyên bác và đầy trí tuệ của tác giả trong việc đem 3 yếu tố này để giảng giải cho luân lý ở bậc tiểu học sơ đẳng.

1.6.1 Bổn phận đối với thân thể

Khởi đầu của phần “Bổn phận đối với thân mình”, tác giả đã trích dẫn câu “Cái hồn lành ở trong cái xác khỏe” để giảng giải mục đích của bổn phận này là “nên được người có phẩm hạnh” và lợi ích của sức khỏe “thân mình có khỏe mạnh thì tâm tính ý chí của mình mới linh hoạt và minh mẫn được, tức là mình mới nên được người có ích cho mình và cho mọi người.

Tác giả giải thích “vệ sinh là nói gồm cả mọi cách của mìnhphải giữ gìn để khỏi mắc phải bệnh tật và sự đau ốm. Về đường luân lý là mình phải theo vệ sinh giữ cho thân thể mình được tốt tươi, để tăng cái phẩm giá của mình lên.”

Ngoài việc giữ vệ sinh để có thân thể khỏe mạnh điều căn bản quan trọng là 1) ăn ở sạch sẻ, 2) có tiết độ, 3) không nghiện ngập và rượu chè, và 4) tập thể thao.

Một độc đáo của tác giả khi nói về sạch sẽ, tác giả đã nhấn mạnh “Người ta ở trong xã hội phải đối đãi với kẻ nọ người kia, bao giờ cũng phải cần có lễ phép lễ phép nào cũng cần lấy sự sạch sẽ làm đầu cả.”

Một điểm khá thú vị là việc hiểu ý nghĩa khác về từ “thể thao” và “thể dục” của tác giả. Trong phần chú thích từ ngữ, tác giả đã viết như sau:

 “Thể thao là cách luyện tập thân thể để lấy thêm sức khỏe- Gymnastique, éducation physique.” (Trang 92)

 Thể dục là sự dạy về việc giữ gìn thân thể – Education physique.” (Trang 99).

Trong phần “Tập thể thao” ông viết “Sạch sẽ, tiết độ và vệ sinh là cốt để bảo dưỡng lấy thân thể. Nhưng muốn cho thân thể mình một ngày một mạnh mẽ hơn và tốt tươi hơn, thì phải tập thể thao nữa mới được.

Thể thao là tập đi, tập chạy, tập nhảy, tập các cách làm cho da thịt được nở nang, cân cốt được khỏe mạnh.” (Bỏ một đoạn.)

Ta xưa nay vẫn quen tưởng rằng đi học thì chỉ cốt mở mang trí tuệ, chớ không cần phải luyện tập thân thể, thành ra bao nhiêu những sự thể dục là đều bỏ cả. Tưởng như thế là lầm, vì rằng thân thể có khỏe mạnh thì trí tuệ mới minh mẫn được, chứ thân thể đã yếu đau, thì chắc là trí tuệ cũng phải kém đi.”

Xem ra “thể dục” lúc đó được hiểu như các môn học dạy giữ gìn thân thể, trong khi “trí dục” là các môn học dạy mở mang hiểu biết, suy nghĩ, xem xét. Ngay cả Từ Điển Hán Việt của Đào Duy Anh và Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức cũng chưa giải nghĩa 2 từ trên giống như ý nghĩa của hiện nay.

Như chúng ta biết xuất xứ của câu “Cái hồn lành ở trong cái xác khỏe” là từ lời bài thơ tiếng Latinh trong tác phẩm Satvrae của Decimus Junius Juvenalis (60~128) “(Orandum est, ut sit) mens sana in corpore sano” và đã được John Locke (1632~1704) dịch ra tiếng Anh, trích dẫn để giới thiệu trong sách “Some Thoughts Concerning Education” (xuất bản đầu tiên năm 1693): A sound mind in a sound body (Một tinh thần lành mạnh trong một thân thể lành mạnh).

1.6.2 Bổn phận đối với tinh thần

1.6.2.1 Bổn phận đối với cảm tình

Kế đến hãy xem phần “Bổn phận đối với cảm tình”. Mở đầu phần này tác giả giải thích “cảm tình” là gì và lý do quan trọng như sau:

Người ta thường hay yêu người nọ ghét người kia. Yêu ai là bạn hữu, ghét ai là thù địch. Cái lòng yêu lòng ghét như thế, tức là cảm tình của mình.

Những cảm tình quan hệ cho người ta lắm, bởi vì những công việc của mình làm, thường hay bởi những cảm tình mà ra cả. Như mình yêu mến người nào thì mình muốn thân cận với người ấy. Mà mình đã không ưa ai thì mình tránh xa không muốn nhìn mặt. Hoặc mình thích điều gì thì mình sẵn lòng muốn làm, mà khi mình đã không thích điều gì, thì mình lấy làm chán nản, khó khăn, không muốn làm. Xem như thế thì sự yêu ghét của mình quan hệ là dường nào.

Vậy nên ta phải xét kỹ những cảm tình của mình để mà khai hóa những cảm tình tốt và trừ bỏ những cảm tình xấu đi.”

Những cảm tình xấu phải bỏ đi là tính tư kỷtính hay giận giỗi (*)tính nhát sợ và tính ham mê cờ bạc.

Tư kỷ là riêng một mình, không biết đến ai, tương phản với bác ái”,đồng nghĩa với “ích kỷ”.

Tác giả khuyên “Luyện tập tình cảm tốt” là 1) tính hồn hậu (trung hậu, thật thà), 2) tính nhẫn nhượng, và 3) tính từ ái.

Ghi chú

(*) Trong nguyên bản viết “giận giỗi” ngày nay viết “giận dỗi”.

1.6.2.2 Bổn phận đối với trí tuệ (lý trí)

Trong phần “Bổn phận đối với trí tuệ” tác giả giải thích trí tuệ là gì, và sự quan trọng của trí tuệ. Cụ thể tác giả giới thiệu sự quan trọng của 1) sự phán đoán, 2) sự kín đáo, 3) sự thành thực, 4) sự khôn ngoan, và việc xấu của 5) sự nói dối.

1.6.2.3 Bổn phận đối với ý chí

Tương tự như những phần khác, trước hết tác giả giải thích ý chí là gì và lý do ý chí có vai trò quan trọng trong cuộc đời của con người. Tác giả nói:

Có khi mình thích làm việc gì, nhưng vì việc ấy trái với lẽ phải, hay là không hợp với lương tâm của mình, thì mình quyết ý không làm. Hoặc là có việc gì khó khăn hay là nguy hiểm, nhưng vì việc ấy là việc phải, thì thế nào cũng cứ nhất định làm cho được. Sự quyết định như thế là do ở cái năng lực (1) riêng của người ta, gọi là ý chí (2). (Bỏ một đoạn.)

Phàm người ta làm việc gì cũng bởi cái sức cố gắng của mình. Mà cố gắng ấy do bởi ý chí mà ra; hễ có ý chí bền chặt thì làm việc gì mới thành công được.

Vậy nên ta phải cố sức luyện tập ý chí cho chắc chắn bền chặt.”

(1) “Năng lực là cái sức tự nhiên để hiểu biết điều gì, hay là làm việc gì – Faculté.” (Trang 117).

(2) “Ý chí là cái năng lực để quyết định làm điều gì, mà làm cho kỳ được – Volonté.” (Trang 15).

Tác giả cho rằng “Dũng khí (3) là cái tâm lực (4) của những người có ý chí làm điều lành, điều phải, mà không sợ sự hiểm nghèo, hay là sự chết.

Người có dũng khí là người biết so sánh việc hay việc dở, biết lo trước nghĩ sau, biết kiên nhẫn để làm cho được việc.

(3) “Dũng khí là cái khí mạnh–Courage”. (Trang 118).

(4) “Tâm lực là cái sức về đường đạo đức của người ta –Force d’âme. (Trang 118).

Tác giả cũng giảng giải thế nào mới là dũng khí thật sự.

1.6.3 Bổn phận đối với đồ vật

Trong phần “Bổn phận đối với những của ngoại vật”, trước hết tác giả giải thích ý nghĩa “Của ngoại vật” và khuyên học trò cần phải biết phân biệt “Cái thực giá của những ngoại vật” để quý những vật đáng quý mà thôi.

Trong phần này tác giả giảng giải lý do “Sự làm lụng” của làm người, khuyên nên có “Sự tiết kiệm”, “Tính hào phóng” và “Tính liêm sỉ” và tránh “Tính xa xỉ” (1) và “Tính biển lận” (2). Đặc biệt khuyên học trò nên phân biệt “hào phóng” với “xa xỉ”.

(1) “Xa xỉ là tiêu nhiều tiền, tiêu hoang phí quá sự cần dùng của mình – Prodique”. (Trang 106)

(2) Biển lận là bủn sỉn keo cúi – Avare. (Trang 106)

Khi nói về tiết kiệm tác giả trích dẫn lời khuyên của Benjamin Franklin (1705~1790), danh sĩ của nước Mỹ:

Anh hãy cứ tiết kiệm, rồi sự độc lập nó sẽ làm áo giáp bênh vực cho anh, nó làm khiên che chở cho anh, nó là cái nón, cái mũ của anh: có sự độc lập thì anh đi ở ngoài đường chững chàng, không phải cúi luồn trước mặt đứa tiểu nhân có của, không thèm thò tay lấy cái gì của ai cho”.

Về hào phóng tác giả giải thích:

“Người hào phóng là người quân tử có nghĩa khí, biết dùng đồng tiền để làm mọi việc, mà bao giờ cũng thật bụng làm điều lành điều phải, chứ không có phô trương giả dối, như những đứa tiểu nhân.

Thường những người đã có tính hào phóng, lại hay cần kiệm, nghĩa là siêng năng và tiết kiệm, biết tìm cách sinh lợi để lấy tiền mà làm việc rộng rãi. Bởi vậy cho nên người hào phóng ở đâu cũng có danh vọng, mà đi đâu người ta cũng kính phục.”

1.7   Luân lý đối với xã hội

Trước hết tác giả giải thích sự quan trọng của xã hội để học trò hiểu tại sao có “Bổn phận mình ở trong xã hội” và có “Nghĩa đoàn thể ở trong xã hội.”

Kế đến tác giả giải thích ý nghĩa của 2 từ “trung thứ” của Khổng học để giảng luân lý căn bản đối với xã hội là công bằn nhân ái. Cụ thể, tác giả viết:

Trung (1) là cứ thẳng mà làm, đừng có giả dối gian ác; thứ (2) là trong bụng mình muốn người ta làm cho mình điều gì, thì mình làm cho người ta điều ấy. Nghĩa là dạy người ta ở với nhau trong xã hội chỉ cốt có đạo công bằng  nhân ái.

Công bằng là không giết ai, không lấy của aikhông làm mất danh giá của ai; nhân ái là làm phúc, làm đức, bố thí cho kẻ nghèo đói, cứu giúp những người hoạn nạn, và bênh vực những người hèn yếu. Cái nghĩa vụ (3) lớn của người ta ở trong xã hội cốt có hai điều ấy.

  1. Trung là thẳng – Droll, loyal”. (Trang 137)
  2. Thứ là thương yêu người ta như thương yêu mình – Aimer les autres comme soi même.” (Trang 137)
  3. Nghĩa vụ là việc nghĩa mình phải làm – Devoir, obligation morale. (Trang 137)

Tiếp theo tác giả giải thích cụ thể về “Phải trọng tính mệnh”, “Phải trọng của cải” và “Phải trọng danh giá” của người khác. Về “Lòng nhân ái”, giảng giải cụ thể về “Việc bố thí”, “Sự ái quần” (bác ái), “Tình hữu ái” (thương yêu bạn bè), “Lòng thí xả” (xả thân vì người, xuất phát từ lòng nhân ái).

Ngoài ra, tác giả giảng giải cụ thể “Lễ phép” khi chào hỏi, trò chuyện, ăn uống, đồng thời cũng không quên đề cập đến “Biết ơn nghĩa” đối với người trong xã hội.

Tác giả cũng lòng nhân ái không chỉ đối với con người mà ngay cả “Bổn phận đối với cầm thú” (động vật) cũng phải có.

Cuối cùng tác giả cũng không quên nói đến lý do làm người phải có “Mấy cái nghĩa vụ yếu trọng đối với nước” khi lớn lên như “Phải tuân kính pháp luật” và “Phải đóng thuế”.

1.8   Tổng kết

Theo thiển ý của người viết, phần “Tổng kết” tác giả nói lên được tâm huyết của tác giả muốn nhắn nhủ đến người trẻ và nói lên được tinh túy của sách. Do đó, mặc dù bài viết sẽ trở nên quá dài nhưng xin được ghi chép lại hết phần này, để quý độc giả có dịp biết được tấm lòng của một nhà sư phạm đáng kính.

Những bổn phận của người ta đối với gia tộc, với học đường, đối với bản thân và với xã hội là thế nào thì đã giảng giải rõ ràng cho các anh nghe, mà các anh cũng đã hiểu rằng người ta bất kỳ giàu sang nghèo hèn thế nào mặc lòng, hễ cái cách ăn ở của mình mà không hợp đạo luân lý, thì cũng thành ra người không có phẩm hạnh, không có giá trị, chỉ là một giống đáng khinh đáng bỉ mà thôi.

Vậy nên cha mẹ sinh con ra nuôi cho khôn lớn lên, cho đi học để biết sự nọ vật kia và những bổn phận của mình là thế nào. Là vì cha mẹ muốn cho con nên người lương thiện tử tế, có cái nhân cách đáng kính đáng mến. Cha mẹ có lòng tốt mà muốn cho con điều lành điều hay như thế, thì đạo làm con là phải cố gắng hết sức mà học tập, để khỏi phụ lòng cha mẹ.

Theo kinh nghiệm bản thân của người viết và tham khảo nhiều sách giáo dục của người Nhật Bản viết, đoạn kế tiếp nói lên được cơ sở căn bản nhất của giáo dục trẻ em, không những người đi học mà ngay cả các bậc cha mẹ và các nhà giáo dục không nên quên lãng bỏ qua.

Các anh phải học và phải tập, nghĩa là học cho biết những điều mình cần phải biết và tập mà làm những điều mình cần phải làm cho thành cái thói quen của mình. Hễ các anh biết được điều phải điều trái, và lại có cái thói quen làm những điều hay, điều lành, thì tất là sự giáo dục của các anh đã tiến bộ lắm.

Nội dung viết sách có lẽ tác giả đã căn cứ theo tinh thần của đoạn tiếp theo:

Đức Khổng tử nói rằng “Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân; hành(*) hữu dư lực, tắc dĩ học văn: Người học trò ở trong nhà thì phải hiếu với cha mẹ, ra ngoài đường thì phải kính nhường kẻ bề trên, làm việc gì thì phải cẩn thận, mà nói điều gì thì phải có tín, nghĩa, là nói thật không nói sai, mở rộng lòng thương người và lại thân với những kẻ có nhân. Hễ làm được những điều ấy rồi, mà còn thừa sức thì hãy học văn chương, xảo kỹ”. Ngài dạy người ta cốt lấy cái đức hạnh ở trong làm gốc, lấy cái văn chương hoa mỹ ở ngoài làm ngọn. Vì rằng người có hạnh cũng như cái hoa có hương thơm vậy, càng thơm bao nhiêu, lại càng quí bấy nhiêu. Vậy ta nên theo lời ấy mà khiến sự sửa mình của ta cho hợp với đạo thường của người ta ở trong xã hội.

Cái đạo thường ấy nói tóm tắt lại là: ở trong nhà thì phải yêu kính cha mẹ, yêu mến anh em, đi học thì phải chăm chỉ học hành, kính trên nhường dưới; đối với thân mình thì giữ gìn cho thân thể được khỏe mạnh tốt tươi, tâm tình được tao nhã thanh tú (**); ở với mọi người thì cần phải có công bằng, có nhân ái, biết vị nghĩa quên lợi, biết cứu giúp người trong lúc gian nan. Ai theo được cái đạo thường ấy thì cũng như con đường cái lớn, “đạo nhược đại lộ”, cứ thẳng mà đi thì không bao giờ lạc được, mà công việc của mình làm thành ra có giá trị, và cái nhân phẩm của mình cũng cao lên.

Ấy mọi lẽ luân lý đại để là thế, các anh đã đi học, thì cần phải gắng mà noi theo, khiến cho người ta càng ngày càng tốt hơn và hay hơn.”

Ghi chú

(*) Trong sách viết “…nhân hành, hữu dực…”. So sánh với sách của Nguyễn Hiến Lê, sách của Lý Minh Tuấn, và ý nghĩa của câu văn có thể suy biết sách in sai nên đã sửa lại.

(**) Trong sách viết “thanh thú”. Tra các từ điển không thấy từ này nên đã sửa lại.

Trong khi viết bài này, người việt nhận được từ một cựu giáo sư thời trung học giới thiệu bài viết “Việt Nam – nhà giàu và những đứa con chưa ngoan” đăng trên https://thanhnien.vn/ ngày 24/3.2014. Người viết không rõ tác giả có phải thật sự là một sinh viên người Nhật Bản từng ở Việt Nam hơn 4 năm không nhưng nội dung bài viết này gợi cho thấy phần “Luân lý đối với xã hội” của sách nên thêm các nội dung: 1) giữ sạch sẽ, 2) giữ trật tự, xếp hàng không chen lấn, 3) giữ sự yên tĩnh (không trò chuyện, cười đùa lớn tiếng) nơi công cộng.

***

Nguyễn Sơn Hùng, Phần I Viết xong ngày 29/9/2023

Trở về trang chủ

Xem thêm cùng tác giả: Những bài viết và dịch của Nguyễn Sơn Hùng

Tài liệu tham khảo

(1) Trần Trọng Kim (1914): Sơ Học Luân Lý, tái bản năm 1950, nhà xuất bản Tân Việt.

https://thuongmaitruongxua.vn/sach/giai-doan-1900-1949/doc-sach/so-hoc-luan-ly-1949.html#page1

(2) Trang giới thiệu các hình bìa của sách Luân Lý Giáo Khoa Thư.

https://luanvan123.info/threads/luan-ly-giao-khoa-thu-lop-dong-au-nxb-nha-hoc-chinh-1925-tran-trong-kim-60-trang.163595/

  Chương trình giáo dục và sách giáo khoa thời Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Chánh https://petruskyaus.net/chuong-trinh-giao-duc-va-sach-giao-k...