!!! Lãnh đạo. Nghĩa là, khả năng khơi dậy và điều phối các hồng ân nơi một cộng đoàn nhân loại đang hiệp nhất tiến bước trong sứ mạng.
1.
Lắng nghe lẫn nhau
2.
Quan tâm đến tình trạng của toàn thể
3.
Sự an tâm để có thể tín nhiệm
4.
Tình yêu là trọng tâm của vấn đề
- Lắng nghe lẫn nhau:
Một
giáo xứ hiện đại tại Hoa Kỳ là một tổ chức nhân sự phức tạp. Để thi hành sứ vụ
của mình, giáo xứ cần đến nhiều kỹ năng đa dạng. Cơn đói khát
thiêng liêng được nuôi dưỡng qua các cử hành cầu nguyện dựa trên kho tàng lịch
sử cứu độ, như chúng ta đã thấy. Nhưng cũng còn đó những lớp học cần được tổ chức, các hoạt
động bác ái cần được triển khai, thời khóa biểu phải được tuân thủ, quỹ cần
được quyên góp và quản lý, vật tư cần được mua sắm, cơ sở vật chất cần được bảo
trì. Máy hơi nước cần được theo dõi, và ngay cả việc thu gom rác cũng cần có
người lo. Có cần phải nói rằng những việc đó không nhất thiết phải do người đã
được truyền chức đảm nhiệm không? Thật không may, dựa vào cách hành xử của một
số mục tử bị “giáo sĩ hóa,” ta có lẽ vẫn phải nói ra điều đó.
Vấn
đề nằm ở chỗ: những vị mục tử không biết trao phó các công việc
này cho người khác đang hành động từ một cảm thức quá mức về tầm quan trọng của
chính mình—một dấu hiệu rõ rệt của não trạng giáo sĩ trị. Cộng đoàn
đức tin không gọi các ngài, cũng không mong các ngài làm những điều đó. Và bất
kỳ chủng viện nào không giúp các chủng sinh thoát khỏi thứ huyễn tưởng tự cao
tự đại ấy—rằng mình có thể “làm được mọi việc”—thì thật sự đang thất bại trong
việc đào tạo cho cộng đoàn linh mục. Những người chuẩn bị trở thành linh mục
không cần học các môn kế toán hay quản trị cơ sở vật chất. Điều họ cần học là biết cách khơi dậy những hồng ân
đang hiện diện trong thân thể của các tín hữu, và biết tín nhiệm họ khi họ phục
vụ cộng đoàn bằng những hồng ân đó.
!!!
Lãnh đạo. Nghĩa là, khả năng khơi dậy và điều phối các hồng ân nơi một cộng
đoàn nhân loại đang hiệp nhất tiến bước trong sứ mạng.
Vậy
thì hãy nhắc lại một lần nữa: Giáo hội là duy nhất, thánh thiện, công giáo và
tông truyền—và đồng thời là một tổ chức hoàn toàn nhân loại. “Lãnh đạo” không
phải là một khái niệm đến từ thế giới thế' tục, tàn nhẫn, kinh doanh. Đó là một vấn đề nhân sinh.
Đó là yếu tố cần thiết cho bất kỳ tổ chức nhân loại nào. Nếu không được quan
tâm đúng mức, nguồn lực
của rất nhiều người thiện chí sẽ bị lãng phí, và sứ điệp Nước Trời sẽ bị
méo mó. Đó chính là trọng tâm của dụ ngôn ngắn trong Tin Mừng, kể về người chủ
nhà đuổi được quỷ ra khỏi nhà mình. Khi nhà được quét dọn sạch sẽ, bảy quỷ dữ
khác kéo đến, và “tình trạng sau cùng của người ấy còn tệ hơn trước” (Lc
11,24-26). Hãy thử hình thành một nhóm không có người lãnh đạo, bạn sẽ thấy một
rổ rắn lổn ngổn tranh nhau leo lên thống trị. Con người vốn là như thế, dù là
trong đời sống thế tục hay thiêng liêng.
Lắng nghe lẫn nhau. Các lý
thuyết lãnh đạo khác nhau có thể nhấn mạnh vào những khía cạnh khác nhau (thậm
chí có phần mâu thuẫn), nhưng có thể nói rằng trong hầu hết các lý thuyết ấy,
một yêu cầu then chốt luôn là: cần có giao tiếp hiệu quả—cả từ phía giáo dân lẫn linh mục.
“Cha ấy không
biết chúng tôi thật sự muốn làm gì, vì cha ấy chẳng chịu lắng nghe ai cả...”
Hai
người ấy chính là đồng phạm trong việc duy trì nền văn hóa giáo sĩ trị. Cha
xứ tránh phải tỏ ra dễ tổn thương bằng cách không lắng nghe và không đối diện
với những điều mà có lẽ ngài không muốn nghe, trong khi vị chủ tịch hội thì
chấp nhận ở trong trạng thái bất mãn thụ động. Mỗi người giữ lấy cái “đặc
quyền” đổ hết trách nhiệm lên người kia, và cả hai đều trút sự bực bội của mình
lên những người thứ ba bên ngoài thay vì chia sẻ trực tiếp với nhau và cùng
nhau bắt tay vào xây dựng điều gì đó.
Chị
đồng ý, nhưng đưa ra một nguyên tắc: “Không được phép than phiền về cha xứ của
các anh.” Điều đó đồng
nghĩa với việc họ được mời gọi phải có trách nhiệm cá nhân, chứ không dễ dãi
chọn con đường chỉ trích người khác.
2.
Quan tâm đến tình trạng của toàn thể.
Một khía cạnh nền tảng thứ hai của vai trò lãnh đạo
chính là: lãnh đạo luôn hướng đến toàn thể, chứ không phải từng phần riêng lẻ.
Người lãnh đạo cần quan tâm đến toàn bộ hệ thống con người, và
đó là một thực tại thuộc cấp độ khác chứ không phải chỉ là tổng số các cá nhân
gộp lại. Một “toàn thể” không phải là phép cộng đơn thuần của các “phần,” mà là
một thực tại khác hẳn về bản chất.
ð như một dân
duy nhất
Nếu người được mời gọi lãnh đạo không
biết quy tụ năng lượng của cộng đoàn, thì cộng đoàn đó sẽ chỉ tồn tại
như một tập hợp rời rạc của những lợi ích riêng lẻ. Mỗi lợi
ích ấy có thể đúng đắn theo cách riêng của nó, nhưng nếu thiếu sự lãnh đạo hiệu
quả, thì từng thành viên sẽ kéo cộng đoàn đi theo những hướng đối lập hoặc thậm
chí chống lại nhau. Trong tình trạng ấy, mượn lời thi sĩ Yeats: “trung tâm sẽ không còn đứng vững,” bởi
vì chẳng còn trung tâm nào nữa.
Điều
đó có nghĩa là: nếu người lãnh đạo muốn quy tụ những năng lượng con người
lại với nhau, thì người ấy cần có khả năng lắng nghe và quan sát liên tục những tín hiệu mà chính
cộng đoàn đang phát ra. Người ấy phải biết diễn giải những tín hiệu ấy
một cách có hệ thống: phân biệt đâu là những tín hiệu thực sự phản ánh sức khỏe
chung của cộng đoàn, và đâu chỉ là những tiếng nhiễu đến từ cảm xúc nhất thời
của những cá nhân lẻ loi. Và một
người lãnh đạo khôn ngoan sẽ không liều lĩnh chỉ dựa vào sự khôn ngoan của
riêng mình (đó cũng là một cạm bẫy của não trạng giáo sĩ trị, như ta đã
thấy). Một người lãnh đạo giỏi sẽ tạo ra nhiều diễn đàn đa dạng - từ
những buổi trò chuyện bên tách cà phê, đến những phiên thảo luận nhóm, hay
những buổi họp mặt toàn thể - nơi các ý kiến trái chiều có thể được cất lên. Âm thanh
kết quả có thể là một hợp âm trưởng hài hòa, một quãng ba thứ trầm lắng, hoặc
cả một dàn hợp xướng đầy hỗn loạn như mèo cào nhau. Ở một khía cạnh nào đó, mức độ hài hòa không phải
là điều quan trọng nhất; điều quan trọng là thực tại được nói lên đúng như nó
là. Hãy nhớ rằng: để chạm đến tâm hồn con người, thực tại không nhất
thiết phải mang dáng vẻ dịu dàng, đoan trang như một bản nhạc của Pachelbel;
những âm thanh chói gắt của Shostakovich cũng có giá trị và sự thật riêng của
nó. Nói một cách bình dân: người lãnh đạo (và cộng đoàn) phải biết chơi những quân bài mà mình
đang có trong tay. Kết quả như thế' nào sẽ tùy thuộc vào cách họ cùng nhau chơi
những quân bài ấy.
Dù khác biệt, thậm chí khác nhau rất sâu sắc, mỗi
mô hình đều mang nơi mình tiềm năng giúp một cộng đoàn cụ thể tiếp tục tiến bước trong hiệp nhất để hoàn thành sứ
mạng của mình.
Việc
“mỗi người một phiếu” không tự động là cách hữu hiệu nhất. Lối
lãnh đạo độc đoán cũng không phải lúc nào cũng gây hại; thực vậy, trong những
thời điểm khủng hoảng, đôi khi đó lại là lựa chọn duy nhất thực sự mang tính
chăm sóc.
Và giữa hai cực đó là muôn hình vạn trạng những mô hình lãnh đạo mang tính tham
khảo và xây dựng đồng thuận. Tính
hiệu quả của một mô hình không tùy thuộc vào bản thân mô hình ấy, nhưng trước
hết là do tình huống và nhu cầu của cộng đoàn cụ thể. Và sâu xa hơn, nó
tùy thuộc vào thái độ mà cả người lãnh đạo và cộng đoàn mang theo khi thực hiện
mô hình đó.
3.
Sự an tâm để có thể tín nhiệm.
Ngay trên
bình diện thực tiễn, thực tại sẽ sớm cho thấy người giữ chức vụ không thể tự
mình làm hết mọi việc. Có
quá nhiều điều cần được thực hiện.
Lãnh đạo không tự động được trao ban cùng với chức
vụ (lại càng không phải cùng với danh xưng); lãnh đạo
luôn là một hồng ân được cộng đoàn tự nguyện trao ban, khi họ cảm nghiệm được
nơi người ấy sự tôn trọng. Lãnh đạo được cộng đoàn đón nhận
trên cơ sở hành động, chứ không phải vì đã được truyền chức hay bổ nhiệm làm
cha xứ.
Một lần nữa,
chúng ta lại đi vào lãnh vực của sự mong manh. Người linh mục mang tinh thần
giáo sĩ trị cố bám víu vào chiếc
nạng cao su là danh xưng và quyền hành để tìm kiếm sự an toàn. Một vị giữ chức vụ nhưng bên
trong lại bị điều khiển bởi nỗi sợ sẽ vận dụng
mọi sự khôn khéo của mình để kìm hãm sự hỗn độn của bất định; và chính nỗ lực kiểm soát đó lại chỉ dẫn
đến thái độ phòng thủ nơi các thành viên.
Một cộng đoàn Hội Thánh, cũng như bất cứ cộng đồng
nhân loại nào, là một mạng lưới tương quan gắn bó với nhau, và hành vi của giáo
dân không thể không bị ảnh hưởng bởi nỗi sợ tỏa ra từ vị lãnh đạo đầy tính kiểm
soát.
Bằng một câu ngắn gọn, Edwin Friedman đã nêu rõ điều thiết yếu nơi người lãnh đạo:
đó là “một sự hiện diện không âu lo.”[1]
4.
Trọng tâm của vấn đề chính là tình yêu
Họ đã được biến đổi ra sao? Những trải nghiệm nào
còn lưu lại mãi? Họ đã khác đi như thế’ nào nhờ những kinh nghiệm đó? Và giờ
đây, họ đang tiếp tục được nuôi dưỡng bởi điều gì trong đời sống và sứ vụ của họ?
Từng
người một, thông điệp hiện lên rõ ràng: họ yêu những con người mà họ phục vụ. Điều được hé lộ chính là lòng
thán phục và biết ơn sâu sắc của các nhà truyền giáo đối với cách mà chính dân
của họ đã loan báo Tin Mừng cho họ.
Nhiều người đã nói rất thẳng thắn: “Tôi cứ tưởng mình được sai
đi để đem Tin Mừng đến cho họ, ai ngờ tôi lại khám phá ra rằng Tin Mừng đã có sẵn nơi họ và
chính họ đã loan báo Tin Mừng cho tôi.” Chính những con người mang phẩm
chất linh mục đã làm cho họ trở thành những mục tử mang linh đạo linh mục. Nếu ơn gọi khiến họ trở thành giáo sĩ, thì chính tình yêu giữa họ với dân
của mình đã giữ họ sống ơn gọi làm linh mục. Sự hỗ tương trong đó có thể cảm nhận được một
cách rõ ràng. Và cũng vậy, là
niềm vui khi được phục vụ.
Có lẽ câu hỏi đầu tiên trong bất kỳ
cuộc lượng giá nào về sứ vụ linh mục nên là: Anh có yêu đoàn chiên của mình không? Và cho cả giáo
dân: Anh chị em có yêu
các vị mục tử đã được kêu gọi từ giữa lòng cộng đoàn mình không?
Tình yêu thì không bao giờ là điều
có thể đòi hỏi hay kỳ vọng, dù là giữa vợ chồng hay giữa cộng đoàn với người
lãnh đạo của họ. Tình yêu,
vào một ngày nào đó, bỗng được khám phá như một sự hiện diện âm thầm. Như một
hồng ân tự nhiên xuất hiện. Nhưng tình yêu ấy chỉ đến sau khi người ta đã dồn
hết sự chú ý và lắng nghe đến những âm thanh mỏng manh nhất; sau khi người ta
đã dốc cạn tấm lòng chăm sóc, vượt qua tư lợi; và sau khi đôi bên đã trao cho
nhau những hành vi phục vụ chân thành.
[1] Edwin Friedman, Generation to Generation: Family
Process in Church and Synagogue (New York: Guilford Press, 1985), passim.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét